PHẦN III: SAU KHI ĐỨC THẦY RA ĐI
Giai Đoạn Quân Sự Hóa 1947-1955
CHƯƠNG
11: GIAI ĐOẠN QUÂN SỰ HOÁ
Trong lịch
sử Phật Giáo Hòa Hảo, ngày 16-4-1947 là một biến cố trọng đại. Vì kể
từ ngày đó Huỳnh Giáo Chủ vắng mặt. Bên ngoài cho rằng Cộng Sản đã hạ sát ông,
nhưng khối tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo cho rằng ông chỉ vắng mặt, và sẽ tái xuất
hiện trong tương lai. Sự vắng mặt của Huỳnh Giáo Chủ đặt tổ chức Phật Giáo Hòa
Hảo vào tình trạng bỗng nhiên mất lãnh đạo, ngôn ngữ Việt Nam ví như
“rắn không đầu.”
Sự vắng mặt
của các lãnh tụ chánh trị thế tục, thường được điền khuyết dễ dàng theo phương
thức bầu cử hay lựa chọn người kế vị. Nhưng một số tổ chức tín ngưỡng không thể
áp dụng phương thức bầu cử để lựa chọn Giáo Chủ. Bởi vì Giáo Chủ lãnh đạo tôn
giáo bằng quyền lực thánh thể phát sinh từ niềm tin siêu hình và tuyệt đối. Huỳnh
Giáo Chủ đối với tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo là Jésus của Cơ Đốc giáo, là Mahomet
của Hồi giáo, nên không thể bầu một phàm nhân thay thế được.
Jésus,
Mahomet ở cương vị thuần tín ngưỡng, trong khi vị Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo vừa
là lãnh đạo tín ngưỡng, vừa là lãnh tụ chánh trị. Vì vậy sự vắng mặt của Huỳnh
Giáo Chủ hiển nhiên đã tạo cho tổ chức Phật Giáo Hòa Hảo một tình huống khủng
hoảng lãnh đạo, với các khó khăn phức tạp trước mặt về lãnh đạo chánh trị, và
khó khăn trường kỳ về lãnh đạo tín ngưỡng.
Hơn thế,
Phật Giáo Hòa Hảo lúc đó phải đối phó với hai địch thủ: Pháp và Việt Minh. Trước
đó, họ chỉ phải đối phó với Pháp, và đề phòng “người bạn đường Việt Minh”. Bây
giờ, người bạn đường đó đã lộ diện là một kẻ thù sẽ áp dụng mọi thủ đoạn tàn độc
và phương tiện chiến tranh để tàn sát và tiêu diệt họ...
Đêm
16-4-1947, Huỳnh Giáo Chủ đi phó hội với đại diện Cộng Sản tại một địa điểm thuộc
Đồng Tháp Mười, làng Tân Phú, tỉnh Long Xuyên. Hội nghị thường diễn ra ban đêm,
vì lý do an ninh, bảo mật. Trong phiên họp này, Cộng Sản đã ám hại Giáo Chủ.
Trước đó,
ở miền Tây, không khí rất căng thẳng sau những xung đột địa phương giữa Phật
Giáo Hoà Hảo và Việt Minh, nên Huỳnh Giáo Chủ, lúc đó đang giữ chức vụ Uỷ viên
đặc biệt của Uỷ ban Hành chánh Kháng chiến Nam bộ, đích thân từ chiến khu miền
Đông trở về miền Tây để tìm cách giải quyết ổn thoả, hầu dồn nỗ lực chung vào
công cuộc kháng Pháp. Với mục đích đó, Giáo Chủ chấp nhận đến họp cùng ủy viên
Quân sự và Thanh tra Chánh trị miền Tây của Việt Minh, tại một địa điểm do Việt
Minh lựa chọn. Và ngay trong phiên họp đêm đó, Việt Minh đã tổ chức một toán Vệ
quốc đoàn phục kích sẵn quanh phòng họp, xả súng liên thanh tự động vào Huỳnh
Giáo Chủ.
Nhưng
Giáo Chủ không chết, và liền sau đó, viết một bức thơ tay cho một người tín đồ
phi ngựa đem về hành dinh quân sự ở phía Bắc Đồng Tháp Mười, thông báo về “một
việc xảy ra bất ngờ”, nhưng hạ lệnh cấm không cho động binh kéo tới chỗ đó. Bức
thơ viết tay này gởi cho hai ông Trần Văn Soái và Nguyễn Giác Ngộ, hai lãnh tụ
quân sự có mặt ở hành dinh Đồng Tháp lúc đó (làng Phú Thành, Long Xuyên).
Qua những
tài liệu của Phật Giáo Hoà Hảo và quân đội Pháp nói về tình hình mới sau khi Huỳnh
Giáo Chủ vắng mặt, thì Pháp đã đóng vai “ngư ông thủ lợi” khi mâu thuẫn giữa Việt
Minh và Phật Giáo Hoà Hảo bùng nổ thành chiến tranh sắt máu. Nhận định của Pháp
lúc đó coi Việt Minh là địch thủ chính và dài hạn, Phật Giáo Hoà Hảo là địch thủ
phụ. Cho nên Pháp đã chuẩn bị sẵn thái độ khi xung đột Phật Giáo Hòa Hảo-Việt
Minh xảy ra. Tình báo Pháp đã theo dõi, nghiên cứu không khí hợp tác giữa Phật
Giáo Hòa Hảo, Việt Minh, mà họ cho là miễn cưỡng. Họ tiên liệu rằng Việt Minh sẽ
tái diễn chủ trương đàn áp Phật Giáo Hòa Hảo như đã thi hành năm 1945. Và đó là
cơ hội mà quân đội Pháp chờ đợi, để xen vào thủ lợi. Tác giả Savani, chỉ huy cơ
quan quân báo Pháp lúc đó đã ghi lại như sau trong tài liệu: ... Theo một tài
liệu phổ biến ngày 21-4-1947, ủy ban Kháng chiến Nam Bộ (Việt Minh) đã chỉ
thị cho các cấp quân sự của họ các biện pháp áp dụng để tiêu diệt sự chống đối
của đảng Dân Xã (Phật Giáo Hòa Hảo). Bởi vì khi tin Huỳnh Giáo Chủ bị Việt Minh
bắt được loan ra, thì khối Hòa Hảo lập tức quay mũi súng về phía Việt Minh. Đây
là cơ hội của ta (Pháp). Không thể bỏ qua... Tác giả Fusier đã viết: ... Khi Huỳnh
Phú Sổ tham gia ủy ban Hành chánh Nam Bộ với chức vụ ủy viên Đặc biệt, Hòa Hảo
thành lập một Trung đoàn (Régiment) do Trần Văn Soái làm Tư lịnh, Lâm Thành
Nguyên Phó Tư lịnh, Nguyễn Giác Ngộ Chánh trị viên. Đơn vị này nhiều lần tấn
công quân đội Pháp, nhưng vẫn chưa quên trong ký ức cuộc tàn sát trước kia
(9-1945), cho nên thường xẩy ra những rắc rối trong mối tương quan hợp tác giữa
Việt Minh và Hòa Hảo.
Hơn thế,
tinh thần “độc lập” của Hòa Hảo, và tâm lý nghi ngờ cao độ của họ đối với Việt
Minh, làm cho cuộc hợp tác này tất nhiên không thể bền bỉ được. Phía Việt Minh
đề phòng thái độ ly khai của Hòa Hảo, nên họ đã phục kích sẵn, để ám hại ông
vào tháng 4-1947. Khi tin này được loan ra, tất cả tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo,
không trừ một người nào, đều quay lại chống Việt Minh. Và do đó, quân đội của
Trần Văn Soái quyết định về hợp tác với chúng ta... (*) Tác giả Hervé đã viết:
... Từ tháng 10-1946, tin tức tình báo tổng hợp biết rằng không khí hợp tác Việt
Minh-Hòa Hảo không êm đẹp hòa thuận. Tại Sadec tháng 12-1946, Việt Minh hạ lịnh
theo dõi hành động của Hòa Hảo trong tỉnh Long Xuyên. Tháng 1-1947, ủy ban Hành
chánh và công an Việt Minh cũng lo thái độ đề phòng phía Hòa Hảo. Qua tháng 2
và 3-1947, đã xẩy ra những cuộc đụng độ giữa các đơn vị quân sự Việt Minh và
Hòa Hảo.
... Tháng
3-1947, đụng độ quân sự đẫm máu đã xẩy ra, tình hình càng ngày càng nghiêm trọng,
cho đến tháng 4-1947 thì Trần Văn Nguyên, thanh tra chính trị miền Tây của Việt
Minh công khai lên án Huỳnh Phú Sổ, rồi bày kế bắt ông này. Những khó khăn
trong cuộc hợp tác Việt Minh- Hòa Hảo phát sanh từ đường lối độc tài của Việt
Minh và chủ trương của Hòa Hảo chống đối quyền lực Việt Minh, đã được thúc đẩy
thêm bởi các hoạt động của sở mật thám Pháp và của đại tá Cluzet tư lịnh miền
Tây; ông này cũng là người đã cụ thể hóa sự hợp tác trong một bản hiệp định
liên quân ký kết ngày 18-5-1947, giữa đại tá Cluzet và Năm Lửa, tức biệt danh của
Trần Văn Soái... (*)
2- Diễn
Tiến Biến Cố 16-4-1947
Những
hàng sau đây là bản tường thuật, gần như một bản nhựt ký của ngày 15 và ngày
16-4-1947, các sanh hoạt của Huỳnh Giáo Chủ. Hôm sau Đức Thầy nhận được hai văn
thơ, một của Trần Văn Nguyên đặc phái viên kiêm thanh tra chánh trị miền Tây
Nam Bộ, và một của Bửu Vinh, mời Ngài đến dự hội nghị họp tại làng Tân Phú, để
định liệu kế hoạch hòa giải giữa Việt Minh và Hòa Hảo Dân Xã.
Vào 7 giờ
sáng ngày 15-4-1947 (24 tháng 2 nhuần), Đức Thầy xuống ghe đi với ba người
chèo, bốn tự vệ quân, ông Đại đội trưởng Đại đội 2 và người thơ ký văn phòng là
ông Huỳnh Hữu Thiện.
Lối 8 giờ
sáng, ghe tới chợ Ba Răng, có Trần Văn Nguyên xuống bến đón Ngài lên chợ. Ngài
diễn giảng trước đám đông người, kêu gọi sự đoàn kết chống xâm lăng, và gạt bỏ
hận thù giữa Việt Minh và Dân Xã. Trưa lại, Ngài dùng cơm với Trần Văn Nguyên
trong một căn phố gần đó. Sau bữa cơm, độ 12 giờ, Trần Văn Nguyên và một thơ ký
xuống đi chung ghe với Ngài đến Đốc Vàng Hạ thuộc thôn Tân Phú. Đến đây, một bản
hiệu triệu được công bố, cho biết các cấp chỉ huy hai bên đang bắt tay nhau lo
việc hòa giải, và kêu gọi hai bên đừng xô xát nhau.
Sau khi
dùng cơm chiều, Đức Thầy lại nghỉ ở nhà một tín đồ gần đó. Hôm sau, ngày
16-4-1947 lối 7 giờ sáng Đức Thầy trở lại hội đàm với Trần Văn Nguyên, rồi phái
ông Ngô Trung Hưng cùng một nhân viên của Trần Văn Nguyên đi các thôn hòa giải.
Sau khi
dùng bữa cơm trưa, Đức Thầy xuống ghe nghỉ, thì Bửu Vinh đến đưa thơ yêu cầu được
gặp Ngài. Trong cuộc hội kiến, Bửu Vinh báo cáo rằng dân xã giết Việt Minh ở Lấp
Vò, và buộc Đức Thầy phải đi, nhưng Ngài tỏ ra cương quyết biện bác và đòi Bửu
Vinh cùng đi. Bửu Vinh khước từ và đòi phải cho bộ đội có võ trang theo phòng vệ,
thì mới đi. Ngài trả lời một cách cứng cỏi:
— Tại sao
tôi có một ít người không có bộ đội ủng hộ, lại dám vào sào huyệt của các ông?
Như thế quí ông không thành thật.
Bửu Vinh
không trả lời được, nên buộc lòng phải đi, và yêu cầu Đức Thầy đến văn phòng của
y để cùng đi. Liền lúc đó, Trần Văn Nguyên đến trao cho Ngài một mảnh giấy nói
rằng có điện tín từ ủy ban Hành chánh Nam bộ mời Đức Thầy trở về miền
Đông lập tức để dự phiên họp bất thường.
Đức Thầy
trả lời không thể trở về dự phiên họp được, vì còn lo việc hòa giải. Chiều hôm ấy,
Trần Văn Nguyên từ giã Ngài vào lúc nhá nhem tối.
Y lời hẹn,
Đức Thầy xuống ghe đến văn phòng Bửu Vinh, có một liên lạc viên dẫn đường. Trời
tối đen như mực, bỗng có tiếng kêu: “Ghe ai đó? Sao giờ này đã thiết quân luật
mà còn dám đi?.” Người liên lạc trả lời: “Đi lại văn phòng ông Bửu Vinh.” Liền
đó có lịnh biểu ghe ghé lại. Rồi thì đèn chói rọi xuống, khi biết là ghe của Đức
Thầy, chúng nói ông Bửu Vinh mời Đức Thầy lên văn phòng.
>Đức
Thầy cùng bốn tự vệ quân lên một nhà ngói. Ngài vào ngồi bàn giữa, nói chuyện với
Bửu Vinh, còn bốn tự vệ quân thì cầm súng đứng hai bên cửa gần đó. Mười phút
sau, lối 7 giờ rưỡi, có tám người từ bên ngoài đi vào, chia làm bốn
cặp, tràn tới đâm bốn tự vệ quân. Ba người bị đâm chết, chỉ còn anh
thứ tư là Phan Văn Tỷ lanh trí nên tránh kịp, liền thoát ra ngoài, bắn một loạt
tiểu liên. Trong lúc anh Tỷ né, thì một trong hai tên Việt Minh bị đồng bọn của
mình đâm chết.
Thấy chuyện
chẳng lành, Đức Thầy lanh lẹ thổi tắt ngọn đèn, văn phòng trở nên tối đen,
không ai nhận ra Đức Thầy đâu cả.
Viên thơ
ký của Ngài và ba người chèo ghe lẹ làng tẩu thoát, vội vã về báo tin. Tiếng tù
và thống thiết nổi dậy báo động. Binh sĩ toan vác súng kéo đi giải vây, thì vào
khoảng 11 giờ đêm, bỗng có một tín đồ phi ngựa về Phú Thành mang một bức thư
như sau:
Thủ bút
và chữ ký của Đức Huỳnh Giáo Chủ
Ngày 16
tháng 4 năm 1947 Dương lịch, đi để giàn xếp các vụ xung đột giữa Việt Minh-Hòa
Hảo, Đức Giáo Chủ đến làng Tân Phú (tức Đốc Vàng Hạ) thuộc tỉnh Long Xuyên.
Nơi đây,
Bửu Vinh đã lập tâm ám hại Ngài, nhưng sau những tiếng súng liên hồi, Đức Giáo
Chủ vẫn không hề hấn. Ngài bình thản viết lá thư này trước mặt một người tín đồ
và sai người này mang về vị trí.
Ông Trần
Văn Soái và ông Nguyễn Giác Ngộ.
Tôi vừa hội
hiệp với ông Bửu Vinh, bỗng có sự biến cố, tôi và ông Vinh suýt chết, chưa rõ
nguyên nhân còn điều tra. Trong mấy anh em phòng vệ, không biết chết hay chạy
đi, nếu có ai chạy về báo cáo rằng tôi bị bắt hay mưu sát, thì các ông đừng tin
và đừng náo động, cấm chỉ đồn đãi, cấm chỉ kéo quân đi tiếp cứu. Hãy đóng quân
y tại chỗ, sáng ngày tôi sẽ cùng ông Bửu Vinh điều tra kỹ lưỡng rồi về sau.
Phải triệt
để tuân lệnh.
16-4-1947,
9 giờ 15 đêm. Ký tên: HUỲNH PHÚ SỔ.
Ông Mai
Văn Dậu đem đối chiếu chữ ký và chữ viết, thì nhận là chính của Đức Thầy. Thế
là mọi người phải tuân lịnh, chỉ nhìn nhau thở dài, với niềm hy vọng ngày mai
Ngài sẽ trở về.
Nhưng từ
ngày 16-4-1947 đến nay, vẫn bặt luôn tin tức. (*) Người đọc dừng lại
một phút để suy xét sẽ nhận thấy các điểm trọng yếu sau đây:
1. Huỳnh
Giáo Chủ chú trọng rất nhiều vào mục tiêu hòa giải để bảo vệ tiềm năng kháng
chiến.
2. Phía
Việt Minh khi trao điện tín mời Huỳnh Giáo Chủ về họp tại miền Đông, là đã có
âm mưu sẵn rồi. Những thái độ và lời nói của Trần Văn Nguyên và Bửu Vinh trong
công tác hòa giải chỉ là ngụy trang. Chính hai nhân vật này đã biết rõ âm mưu dự
tính, và biết việc gì sẽ xẩy ra trong đêm 16-4.
Tài liệu
sau đây, bản Huấn lịnh ngày 21-4-1947 là bằng chứng về chánh sách khủng
bố đàn áp của Việt Minh đối với Phật Giáo Hòa Hảo, Dân Xã.
3- Huấn Lịnh
Gởi Các Cấp Hành Chánh, Quân Đội, công An 1
1. Tại
nơi nào có Dân Xã nổi dậy, phải bắt hết các cơ quan chỉ huy quân sự, hành
chánh, và mọi tổ chức Bảo An, dân quân của Dân Xã Đảng, cấp tỉnh, quận và xã. Tại
các vùng khác, phải bắt hết các Ban trị sự, Ban chỉ huy quân sự, Bảo An cấp tỉnh,
quận. Bí mật bắt giam các thành phần nguy hiểm, tình nghi chống đối.
2. Đặc
biệt tại các tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc, Cần Thơ, Sa Dec, phải động viên và võ
trang mọi tổ chức cứu quốc.
3. Hạ
lịnh cho tất cả đảng viên Dân Xã phải giao nạp võ khí. Kẻ nào còn giấu giữ võ
khí, phải bị trừng phạt nặng nề.
4. Áp
dụng tình trạng thiết quân luật để trừng trị, không cần thiết đưa ra tòa án.
(1)
5. Bắt
buộc các đảng viên Dân Xã phải tuyên bố ủng hộ chánh phủ và quân đội. Kẻ nào từ
chối, sẽ bị nghiêm trị. Tại các vùng mà dân chúng tất cả đều là Dân Xã, phải lựa
các thành phần nào không tham gia Dân Xã nổi dậy, mà đưa họ vào tổ chức của ta.
Ngày
21-4-1947
Ký tên:
Thanh tra Chánh trị Trần Văn Nguyên
và Giám đốc
Công an Kiều Tấn Lập
(1) Có
nghĩa là thủ tiêu, giết chết không cần án tòa.
Chiến dịch
khủng bố khốc liệt của Cộng Sản diễn ra khắp miền Tây đã sát hại dưới nhiều
hình thức cả chục ngàn tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo. Ông Hồng Văn Hoạnh, một tín đồ
quê tại Tân Châu cho biết:
Sau khi
các đơn vị quân sự Cộng Sản rút lui khỏi vùng Phú An Phú Lâm, dân chúng địa
phương khám phá ra mấy hầm chôn xác chết, mỗi hầm trên ba ngàn người, tổng cộng
gần 10.000. Người chung quanh cho biết nhiều người còn sống cũng bị chôn luôn,
cảnh tưởng hãi hùng chưa từng có. Vì không phân biệt được danh tánh những người
chết, nên Ban trị sự tại đây lập mộ đài cúng giỗ tập thể mỗi năm. Nghe đâu tại
các vùng Tân Thành Cải Cái cũng có nhiều hầm chôn như thế. Còn ghê gớm hơn vụ Mậu
Thân ở Huế. (*)
Tình thế
đó được mô tả trong một trang ký sự đăng trên tập san Đuốc Từ Bi số 5,
ngày 1-4-1982, như sau:
Sau ngày
Đức Huỳnh Giáo Chủ bị ám hại (16-4-1947), tình thế trở nên khẩn trương. Khắp
nơi lửa cháy bừng bừng, bộ đội võ trang của Cộng Sản kéo quân bao vây, chỗ nào
có bàn Thông thiên là họ nổi lửa đốt nhà, bắn người không cần xét xử; hàng ngày
hàng giờ, những tin tức do liên lạc chạy bộ hay đi xe đạp về Thánh địa Hòa Hảo,
báo động liên tiếp ngày đêm. Tình trạng thật nguy hiểm, khu Thánh địa cũng bị
hăm dọa bởi chi đội 18 của Cộng Sản, tên Xuyến chỉ huy đã tuyên bố là sẽ tràn
vào Thánh địa “làm cỏ không tha một con đỏ”.
Anh chị
em Phật Giáo Hòa Hảo vùng Thánh địa quyết tâm tử chiến để bảo vệ Thánh địa, và
chỉ sau một cuộc chiến đấu liên tiếp mấy đêm ngày, chi đội 18 Cộng Sản nhận thấy
võ khí của họ không thể thắng được những tấm lòng kiên quyết tử vì Đạo, dù chỉ
với võ khí bén, vẫn lăn xả vào các họng súng liên thanh, cho nên chi đội 18 đã
phải rút quân. Hai bên chết khá nhiều, phía Phật Giáo Hòa Hảo mất nhiều cán bộ
trong cuộc tử chiến này.
Cũng
trong hoàn cảnh khẩn trương ấy, một chiếc tàu sắt của Pháp chạy đến trên sông
Tiền Giang ngang Thánh Địa. Kẻ thù trước mắt, và kẻ thù sau lưng, thử hỏi tình
trạng rối ren đến thế nào?
Nhưng lần
này tàu sắt Pháp không đổ bộ ruồng bố bắn giết như trước kia, họ quan sát rồi
chạy đi.
Đồng thời
lúc đó, ở khắp nơi, cảnh tượng tương tự đã diễn ra... Các chị phụ nữ Bảo An vác
kiếm, các thanh niên vác tầm vông hay súng, các bô lão tiếp tế, các em bé liên
lạc thông tin, cả làng cả xã, cả ấp được huy động thường trực ngày đêm để sẵn
sàng đối phó với các bộ đội võ trang của Cộng Sản. ở những vùng xa xôi mà tín đồ
Phật Giáo Hòa Hảo ít, không đủ sức đối phó, thì họ lũ lượt bỏ nhà cửa, tản cư đến
các vùng an toàn, tạo ra cảnh màn trời chiếu đất cho hàng trăm ngàn người.
Riêng tại Thánh Địa Hòa Hảo, ghe đậu chật dưới sông, người nằm chật các khoảng
trống, dưới bụi tre, bụi chuối... toàn là tín đồ tản cư để tránh nạn Cộng Sản
tàn sát.
Lúc đó
Ban Chấp hành Liên Tỉnh Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng cấp tốc thảo luận về các
biện pháp ứng phó. Đại ý các quan điểm tranh luận kẹt vào thế lưỡng nan:
Một
quan điểm cho rằng trong tình thế khẩn trương sinh tử, phải dựa vào Pháp để đối
phó với Cộng Sản.
Một
quan điểm khác cho rằng không thể dựa vào Pháp, vì Pháp là thực dân xâm lược, kẻ
thù dân tộc.
Một
cuộc hội nghị tối cao Quân Chánh được triệu tập khẩn cấp tại Thánh địa dưới sự
chủ tọa của Đức Ông Huỳnh Công Bô, cố vấn tối cao, gồm các lãnh tụ quân sự,
chánh trị, tôn giáo Phật Giáo Hòa Hảo-Dân Xã.
>
Những quyết
định căn bản của hội nghị này là:
Giữ
vững lập trường căn bản tranh đấu cho mục tiêu Việt Nam độc lập thống
nhất.
Thực
dân Pháp và Việt Minh Cộng Sản là hai kẻ thù dân tộc, nhưng trước mắt phải đối
phó với hiểm họa tiêu diệt do Cộng Sản chủ trương.
Do đó hội
nghị lấy các quyết định sau đây:
1. Phật
Giáo Hòa Hảo giữ Đạo chơ Thầy, bảo tồn chánh pháp.
2. Việt
Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng tiếp tục con đường cách mạng dân tộc, chống Pháp chống
Cộng để bảo tồn chánh nghĩa trong thời gian Đức Thầy vắng mặt.
3. Chi
đội 30 Nguyễn Trung Trực từ nay rút khỏi hệ thống Vệ quốc đoàn, nhưng không ra
hợp tác với Pháp, để bảo toàn danh nghĩa chống Pháp mà Đức Thầy đã nêu lên khi
thành lập đơn vị quân sự này.
4. Khí
giới của chi đội 30 được trao lại cho các đơn vị quân sự nào lúc đó đảm nhận
nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ đồng đạo, và vì nhu cầu đó phải ra hợp tác với Pháp.
5. Quyết
nghị số 4 này mang tính chất thực tế, vì hội nghị biết rằng trong tình thế khẩn
trương đó, không thể nào ngăn cản phản ứng tự nhiên của các cấp quân sự, tìm
phương tiện võ khí để tự vệ và bảo vệ đồng đạo trước làn sóng khủng bố tàn bạo
ghê gớm của Cộng Sản.
Ban Chấp
Hành Liên Tỉnh Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng lúc đó thay mặt Trung ương Đảng bộ,
trực tiếp ứng phó tình hình miền Tây, đã chỉ thị cho hệ thống Ban Chấp Hành Dân
Xã toàn quốc áp dụng lập trường không hợp tác với Pháp, hoạt động bí mật để bảo
tồn cơ sở.
Nhưng thực
sự, đó là một thế kẹt. Lập trường đó chỉ có thể bảo vệ được danh nghĩa nhưng
không hữu hiệu trong một hoàn cảnh mà chính mình không đủ sức mạnh để một lúc
chống lại hai kẻ địch, Pháp trước mặt và Việt Minh sau lưng.
Tự trong
tình huống đó, khởi đầu giai đoạn hợp tác với Pháp, và đưa đến hiệp định liên
quân 18-5-1947 ký kết giữa ông Trần Văn Soái va Đại tá tư lịnh miền Tây của
Pháp.
4- Thế Kẹt
Lưỡng Đầu Thọ Địch: Pháp Và Cộng Sản
16-4-1947
đã trở thành một khúc quanh lịch sử của Phật Giáo Hòa Hảo. Đứng trước một tình
thế lưỡng nan, nguy hiểm, tổ chức Phật Giáo Hòa Hảo phải lấy một quyết định lựa
chọn giữa hai kẻ thù. Vì không thể chiến đấu chống một lần cả hai đối lực, trên
hai trận tuyến. Tương quan lực lượng cũng bất lợi cho Phật Giáo Hòa Hảo. Họ chỉ
có khối quần chúng đồng đạo hậu thuẫn, nhưng lại rất ít võ khí so với Việt Minh
và Pháp. Trong số mấy chục ngàn đội viên Bảo An đã đoàn ngũ hóa, chỉ dưới năm
phần trăm được võ trang bằng súng đạn, số còn lại chỉ có tầm vông và đao kiếm.
Số quân võ trang bằng súng của Việt Minh lúc đó tại Hậu Giang ít nhứt cũng 5 lần
nhiều hơn. Phía quân đội viễn chinh Pháp cố nhiên đầy đủ súng cá nhân, súng cộng
đồng và các loại trang bị nặng: pháo binh, hải quân, không quân.
Trước 16-4-1947,
tuy rằng Pháp võ trang đầy đủ, tối tân, nhưng cũng không vì thế mà chủ động được
chiến trường du kích của kháng chiến Việt Nam. Pháp cũng không thể kiểm
soát diện địa mọi nơi, chỉ mạnh tại đô thị và trục lộ giao thông. Phe kháng chiến
làm chủ tình hình nông thôn bưng biền, mà Pháp ít khi dám mạo hiểm vào, nếu
không phải là những cuộc hành quân lớn. Việt Minh và Phật Giáo Hòa Hảo không phải
lo ngại phía sau lưng, mà chỉ cần đối phó quân đội Pháp từ bên ngoài hành quân
tấn công vào các chiến khu.
Sau 16-4-1947,
tình thế khác hẳn. Phật Giáo Hòa Hảo lưỡng đầu thọ địch, sẽ phải chịu đựng rất
nhiều tổn thất sanh mạng, và có thể bị tiêu diệt nếu cả hai kẻ thù cùng tấn
công một lần, dù đó không phải là một cuộc hành quân phối hợp giữa Pháp và Việt
Minh. Hãy tưởng tượng một hoạt cảnh chiến trường trong tình thế đó: Nếu quân đội
Pháp mở cuộc hành quân vào vùng đóng binh của một đơn vị võ trang Phật Giáo Hòa
Hảo, và Việt Minh lợi dụng cơ hội đó, kéo quân dàn phía sau lưng, chờ khi các
đơn vị Phật Giáo Hòa Hảo lui quân trước sức tấn công của Pháp, Việt Minh sẽ
không phải khó nhọc nhiều để tiêu diệt đơn vị Phật Giáo Hòa Hảo đang bị kẹt giữa
hai làn đạn này.
5- Thái Độ
Chánh Phủ Cộng Hòa Nam Kỳ
Thái độ của
phía chánh phủ Nam Kỳ sau khi biến cố 16-4-1947 xẩy ra, được mô tả trong một số
văn kiện mà tác giả là Nguyễn Văn Tâm, lúc đó giữ chức vụ Tổng trưởng Quốc
phòng trong nội các Lê Văn Hoạch. Những tài liệu này biểu lộ sự bất lực và thái
độ rụt rè của chính phủ, cũng là một sự xác nhận chánh sách cơ hữu “chia để trị”
đối với Phật Giáo Hòa Hảo. Ông Nguyễn Văn Tâm có óc thực tế và bản chất thẳng
thắn, nhắm vào hiệu năng công việc, nên đã lên tiếng phản đối thái độ chánh phủ
trong việc đối xử thiếu tích cực giúp đỡ Phật Giáo Hòa Hảo trong tình thế nguy
ngập khó khăn.
Ông Nguyễn
Văn Tâm đã về điều nghiên tình hình tại miền Tây, nắm vững vấn đề, và đưa các đề
nghị sau đây:
Tiếp theo
điện văn số 49 ngày 15-4-1947 và văn thư ngày 17, 21-4, tôi yêu cầu
Thủ tướng lấy quyết định về vấn đề thời sự nóng bỏng, có thể tạo các hậu quả
quan trọng, là vấn đề Hòa Hảo.
Hoặc là
chúng ta võ trang Hòa Hảo, với hậu quả là họ có thể quay lại chống chúng ta về
sau khi có võ khí trong tay.
Hoặc là
chúng ta để mặc cho họ bị Việt Minh đàn áp, với các hậu quả của tình trạng đó.
Không thể
kéo dài mà không quyết định. Theo ý kiến của tôi, giải pháp thích nghi là nên
võ trang cho Hòa Hảo để họ tự vệ, đồng thời có biện pháp đề phòng hậu quả.
Dù sao, một
quyết định khẩn cấp rất cần thiết, chánh phủ phải có thái độ rõ ràng, vì không
thể kéo dài tình trạng mập mờ hiện nay, có thể làm cho giới Hòa Hảo nghi ngờ và
giảm nhuệ khí. (Lược trích văn thơ mật số 78 ngày 6-5-1947 của Tổng trưởng Quốc
phòng Nguyễn Văn Tâm gửi Thủ tướng Lê Văn Hoạch.)
... Theo
ý tôi, cần phải tạo sự tin cậy của phía Hòa Hảo bằng các phương tiện đầy đủ,
thay vì cứ ở trong tình trạng nghi ngại không có lý do, như thái độ từ trước đến
nay. Chánh sách hiện nay có khuynh hướng chia rẽ nội bộ quân lực Hòa Hảo. Lẽ ra
chúng ta phải giúp Hòa Hảo kết hợp để tăng hiệu năng tối đa trong việc chiến đấu
chống Việt Minh. Không có lý lẽ nào có giá trị để bào chữa cho chánh sách chia
để trị cả.
Nếu cứ tiếp
tục chánh sách tiêu cực hiện nay, sẽ có các hậu quả xấu ngày mai... Chánh sách
võ trang cầm chừng, yếu ớt, đã có các hậu quả ngược lại, nhiều đơn vị Hòa Hảo
vì không đủ võ khí tự vệ đã bị Việt Minh tàn sát, làm cho hàng ngàn tín đồ phải
bỏ làng di cư, và phải sống khốn khổ, chen chúc trên các ghe thuyền, đầy nhóc
người già cả, con trẻ, đàn bà, rồi sẽ phát sanh bịnh tật và các vấn đề rắc rối
khác. Nhiều đội Bảo an thiếu võ khí đã phải bỏ làng tản cư, như trường hợp đã xẩy
ra tại tỉnh Sa Dec, họ chạy lánh nạn tại Cù Lao Cát.
Tình trạng
này chắc chắn sẽ đưa đến hậu quả tai hại lớn lao.
Vì thế,
tôi xin lưu ý Thủ tướng về sự cần thiết phải có một chánh sách minh bạch, tích
cực và nhứt thống về vấn đề Hòa Hảo, chớ không thể để kéo dài tình trạng này,
và để cho các vị tỉnh trưởng hay chỉ huy khu vực tự ý hành động theo tư ý cá
nhân mỗi người. (*)
6- Thế Kẹt
Không Có Giải Pháp Vẹn Toàn
Với chủ
mưu gây ra biến cố 16-4-1947, Việt Minh đã lấy một quyết định dứt khoát thái độ:
không hòa giải nữa, nhứt định tiêu diệt Phật Giáo Hòa Hảo bằng võ lực. Phía Phật
Giáo Hòa Hảo cố nhiên cũng phản ứng bằng võ lực. Từ biến cố đó, mở đầu giai đoạn
quân sự hóa mạnh mẽ khối Phật Giáo Hòa Hảo.
>
Nếu Phật
Giáo Hòa Hảo chỉ là một tổ chức cán bộ hoặc đơn vị quân sự, thì có thể không cần
phải hợp tác với Pháp trong hoàn cảnh đó. Một tổ chức cán bộ hay một đơn vị
quân sự được tổ chức chặt chẽ, lại ít người, nên dễ phân tán, để tự tồn tự vệ
trong những hoàn cảnh khẩn trương, bất lợi. Thí dụ, năm 1930, Việt Nam Quốc Dân
Đảng, sau khi cuộc nổi dậy Yên Bái thất bại, đã có thể phân tán cán bộ và đảng
viên vào ẩn náu trong quần chúng để tránh né màng lưới mật thám Pháp. Năm 1946,
Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt bị Cộng Sản Việt Minh đàn áp, cũng có thể
phân tán cán bộ để tránh mũi dùi khủng bố. Một số lưu vong sang Trung Hoa, một
số về thành sống dưới sự cai trị của Pháp, nhưng cũng vẫn có thể ẩn náu để tự tồn.
Nhưng Phật
Giáo Hòa Hảo là một tổ chức quần chúng khá đông, không thể phân tán đi đâu được.
Khối quần chúng lại là mục tiêu có sẵn, đối phương có thể đến tấn công và tàn
sát bất cứ lúc nào, chỗ nào. Mục tiêu lúc nào cũng lộ diện.
Với số
tín đồ khoảng trên một triệu người lúc đó, Phật Giáo Hòa Hảo như một con voi,
không có cái thúng nào úp lên che kín được. Có những làng gần 100 phần trăm dân
số là tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, Cộng Sản nhắm mắt xả súng cũng hạ được người Phật
Giáo Hòa Hảo. Các đơn vị quân sự Việt Minh có mặt tại chiến trường miền Tây lúc
đó, như đơn vị Bùi Văn Danh, chi đội 18 của Xuyến, chi đội Văn chỉ huy... đã
không ngần ngại, công khai tuyên bố và thi hành: kéo quân đội đến “làm cỏ” các
vùng Hòa Hảo. “Làm cỏ” có nghĩa là đến đốt phá hết nhà cửa, lương thực, tàn sát
hết người, không phân biệt quân sự hay dân sự, già hay trẻ, đàn ông hay đàn bà,
con nít hay người lớn, bởi tất cả đều là “Hòa Hảo”, và phải tiêu diệt theo kế
hoạch tận diệt Phật Giáo Hòa Hảo đã được quyết định bởi đảng Cộng Sản.
Trong một
tình huống như thế, sinh lộ duy nhứt và trước mắt của khối tín đồ Phật Giáo Hòa
Hảo là tìm võ khí để tự bảo vệ. Những vấn đề khác, kể cả kháng Pháp cũng không
khẩn trương bằng vấn đề tự vệ tự cứu. Như người sắp chết đuối không còn phân biệt
tấm ván cứu tử kia là của ai nữa. Nhứt là đối với quần chúng, một quần chúng
tín ngưỡng đang sống trong bầu không khí phẫn nộ, khẩn trương, căng thẳng đến tột
độ, mà không một lý luận chánh trị nào còn có giá trị bằng cây súng để tự cứu
mình.
Những
nghiên cứu về khoa tâm lý quần chúng đã ghi nhận sự kiện tâm lý đám đông khi nổi
giận thường hành động theo tình cảm, xúc động, theo bản năng không theo lý trí
nữa.
Hoàn cảnh
và tâm lý đó, đương nhiên đưa đến tình trạng hợp tác với Pháp để có võ khí đánh
lại Cộng Sản. Cho nên, những sử gia sau này, nếu muốn bảo tồn tính cách trung
thực của công tác chép sử, cần phải tìm hiểu bối cảnh phát sanh việc Phật Giáo
Hòa Hảo hợp tác với Pháp lúc đó, thay vì chỉ đơn giản phê phán. Cao Đài cũng vì
áp lực khủng bố của Cộng Sản mà đã về hợp tác với Pháp trước đó, từ 8-1-1947.
Cũng như không nên đơn giản kết tội “thân Pháp” cho những lãnh tụ Quốc Dân Đảng,
Đại Việt đã phải trốn Cộng Sản, về “tề”, và núp dưới cây dù an ninh của quân đội
Pháp, hoặc ra nhận các chức vụ trong guồng máy chánh quyền tại thành phố, cộng
tác và sống chung với Pháp.
Tuy vậy,
không phải toàn bộ khối Phật Giáo Hòa Hảo ra hợp tác với Pháp, mà thực sự chỉ
là một cuộc liên minh về quân sự, Bộ phận chính trị của Phật Giáo Hòa Hảo lúc
đó, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng tại miền Tây, vẫn cố gắng bảo tồn lập trường
kháng Pháp, và một số đơn vị quân sự cũng không chấp nhận ra hợp tác với Pháp,
vẫn tiếp tục tấn công các đơn vị Pháp dưới nhiều hình thức khác nhau.
Đơn vị
Nghĩa quân Cách mạng do Lê Quang Vinh chỉ huy không chấp nhận hợp tác với Pháp,
tiếp tục sống trong bưng biền. Chi đội 30 Nguyễn Trung Trực do Nguyễn Giác Ngộ
chỉ huy cũng không ra hợp tác với Pháp. Ban Chấp Hành liên tỉnh Việt Nam Dân Chủ
Xã Hội Đảng vẫn tiếp tục đường lối chống thực dân Pháp.
Người
Pháp lúc đó cũng nhận thấy các khuynh hướng chống đối này, nếu phát triển và
bành trướng mạnh mẽ lên, sẽ thành những khó khăn trở ngại cho họ, cho nên Pháp
đã tìm mọi phương cách để bóp nghẹt.
Tuy
nhiên, các hoạt động kháng Pháp nói trên, vì hoạt động bí mật và địa phương,
không liên kết được với các tổ chức kháng Pháp ở các nơi khác, cho nên ít được
biết tới, ít được nhắc nhở. Trái lại, bộ phận hợp tác với Pháp hoạt động công
khai, bành trướng mau lẹ, tạo một sanh hoạt mới, một bộ mặt mới cho khu vực miền
Tây Nam Việt lúc đó, và trở thành một thế lực tại miền Nam, cho nên đã được mọi
người biết tới, nói tới.
Tuyên
truyền Cộng Sản Việt Minh cố nhiên không bao giờ muốn nói đến các bộ phận kháng
Pháp của Phật Giáo Hòa Hảo, mà dồn rất nhiều nỗ lực để bôi xấu khối Phật Giáo
Hòa Hảo nói chung. Cán bộ tuyên truyền Cộng Sản đồn đãi tin theo lối rỉ tai, và
viết bài cho báo chí xuất bản tại Saigon, đã tạo ra những mẩu chuyện, những sự
kiện, những tin tức, nói là “chuyện thật miền Tây” hay “chuyện thật Hòa Hảo” với
kỹ thuật viện dẫn nhân chứng và bằng cớ giả tạo, làm cho người đọc, người nghe
không thể không lưu ý, và rốt cuộc tự tạo cho mình một thành kiến xấu đối với
Phật Giáo Hòa Hảo. Điển hình là câu chuyện “Hòa Hảo ăn thịt người” và câu nói
ví von “nói láo như Hòa Hảo”, còn được truyền lại mãi về sau này. Ngay các giới
sống ngoài Bắc Việt, không hề biết Phật Giáo Hoà Hảo, không hề tiếp xúc hay đối
nghịch quyền lợi với Phật Giáo Hòa Hảo mà khi di cư vào trong Nam năm 1954,
cũng đã thuộc sẵn mấy câu “Hòa Hảo ăn thịt người” và “nói láo như Hòa Hảo.”
7- Hiệp Định
Liên Quân Pháp - Hòa Hảo Ra Đời
Sau những
ngày thương thuyết về các điều kiện hợp tác, ngày 18-5-1947, một bản Hiệp ước
liên quân được ký kết tại Cần Thơ, giữa ông Trần Văn Soái và Đại tá Cluzet, tư
lịnh miền Tây. Tác giả Savani, sĩ quan chỉ huy cơ quan quân báo Pháp lúc đó đã
ghi lại như sau trong tài liệu:
...Sau
khi Đức Thầy vắng mặt, các lãnh tụ quân sự và tôn giáo của Phật Giáo Hòa Hảo
nghiên cứu các điều kiện để hợp tác với quân đội Pháp. Mặc dù có sự bất đồng ý
của một số các lãnh tụ như ông Lê Văn Kinh và ông Nguyễn Giác Ngộ, luật sư Mai
Văn Dậu là người được ủy nhiệm điều khiển công tác thương thuyết với Pháp.
Phía người
Pháp và chánh phủ Nam Kỳ lúc đó, phái đoàn thương thuyết do đại tá Cluzet cầm đầu
gồm có đại úy Nogret và thiếu úy (thông ngôn) Bùi Quang Tần thuộc đệ nhị phòng
miền Tây, được sự giúp đỡ của ông Nguyễn Văn Tâm đại diện chính phủ lâm thời
Nam Kỳ. Phái đoàn này đã thành công trong mục tiêu giới hạn những yêu sách
chánh trị của đảng Dân Xã đưa ra. Một bản văn gọi là Hiệp định Liên quân được
ký kết ngày 18-5-1947 tại Cần Thơ quy định các căn bản hợp tác
Pháp-Hòa Hảo, và sự tham gia của Phật Giáo Hòa Hảo vào công cuộc bình định.
Phật Giáo
Hòa Hảo và lực lượng quân sự được chánh thức công nhận, với tự do tín ngưỡng,
được sử dụng quân lực Phật Giáo Hòa Hảo để bảo vệ tín đồ, được quyền đại diện
trong các hội đồng hành chánh, được tăng gia võ trang, và mang phù hiệu riêng của
Phật Giáo Hòa Hảo. Người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo cam kết tôn trọng luật pháp,
chống lại Cộng Sản Việt Minh, hợp tác với bộ tư lịnh Pháp và nhà cầm quyền hành
chánh dân sự.
Trong buổi
lễ ký kết Hiệp định Liên quân, ông Trần Văn Soái nhận cấp bực Thiếu tướng với một
ngôi sao, do Đại tá Cluzet trao. Các sĩ quan Phật Giáo Hòa Hảo cũng nhận cấp bực.
(*)
Việc
thương thuyết trước khi ký kết hiệp định đã diễn tiến khá gay go, do sự bất đồng
quan điểm giữa đôi bên. Phía Pháp không ghi vào tài liệu những tranh luận trong
lúc thương thuyết, nhưng theo tài liệu phía Phật Giáo Hòa Hảo thì quan điểm Phật
Giáo Hòa Hảo-Dân Xã Đảng đã được ấn định bởi cơ quan Quân chính tối cao Phật
Giáo Hòa Hảo-Dân Xã Đảng, do ông Cả Huỳnh Công Bộ, thân sinh Huỳnh Giáo Chủ,
làm Cố vấn tối cao, với thành phần chính yếu là các nhân vật: Lê Văn Kinh (bí
danh ông Lượng Trọng Tường) Trưởng Ban Chấp hành Dân Xã liên tỉnh miền Tây, Ngô
Văn Hai (bí danh của ông Nguyễn Xuân Tăng) Tổng Thơ ký, Nguyễn Ngọc Tố Cố vấn,
Mai Văn Dậu Đổng lý Văn phòng ủy viên Đặc biệt, Nguyễn Văn Vạn Bí thơ, và một số
lãnh tụ quân sự.
Lập trường
thương thuyết ấn định bởi Cơ quan Quân chính tối cao Phật Giáo Hòa Hảo-Dân Xã Đảng,
đã bị Pháp bác bỏ, có các quan điểm sau đây:
1. Trên
nguyên tắc căn bản, đây là một cuộc liên quân Pháp-Hòa Hảo, không phải một cuộc
quy thuận của Phật Giáo Hòa Hảo.
2. Phải
có sự cam kết nguyên tắc (engagement de principe) của Pháp tôn trọng đường lối
chủ trương của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, là thực hiện một nước Việt Nam có
chủ quyền quốc gia.
3. Quân
đội Pháp phải tôn trọng sự chỉ đạo chánh trị của Đảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đối
với tổ chức quân sự Phật Giáo Hòa Hảo-Dân Xã.
4. Pháp
phải tôn trọng tự do tín ngưỡng của tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, tự do chánh trị của
Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, không xen vào nội bộ tổ chức tôn giáo, chánh trị,
quân sự của Phật Giáo Hòa Hảo-Dân Xã.
Theo quan
điểm của phía Phật Giáo Hòa Hảo-Dân Xã, thì bốn điểm này thể hiện lập trường
nguyên tắc của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, đặt ra với Pháp như một biện minh
lịch sử: dù bị lâm tình trạng bất khả kháng phải hợp tác với Pháp, vẫn chủ
trương rằng sự hợp tác đó phải tiến đến mục tiêu cứu cánh là đòi lại chủ quyền
quốc gia (điểm 2). Các điểm 3, 4 có mục đích ngăn ngừa sự thao túng của Pháp đối
với các vấn đề điều hành nội bộ Phật Giáo Hòa Hảo-Dân Xã, tránh tình huống bị lệ
thuộc vào Pháp và bị chi phối bởi Pháp. Điểm 1 đặt cho rõ vấn đề là Liên quân
chớ không phải đầu hàng. Ông Trần Văn Soái lúc đó là đơn vị trưởng Chi đội 2
Lưu động.
Sau biến
cố 16-4-1947, đơn vị này tuyên bố rút khỏi Vệ quốc đoàn.
Vì ông Trần
Văn Soái trước kia hoạt động tại Cần Thơ, nên ông quyết định đưa đơn vị từ Long
Xuyên về Cần Thơ, nơi đó ông thông thuộc địa hình địa vật, và có nhiều quen biết
nhân sự. Khi ông về tới Cần Thơ, Pháp cử người đến liên lạc, đề nghị một sự hợp
tác. Ông tự biết mình là người ít học, không thể “ăn nói” với Pháp được, nên
yêu cầu cấp trên phái người đến nói chuyện với Pháp. Luật sư Mai Văn Dậu lãnh
nhiệm vụ này. Ông tốt nghiệp đại học luật khoa tại Pháp, trở về Việt Nam làm luật
sư, nhưng vì tánh tình bướng bỉnh, nên bỏ nghề, rồi sau quy y làm tín đồ Phật
Giáo Hòa Hảo. Khi Huỳnh Giáo Chủ nhận chức ủy viên Đặc biệt trong ủy ban Hành
chánh Kháng chiến Nam bộ (với Phạm Văn Bạch là Chủ tịch, Nguyễn Bình ủy viên
Quân sự), ông Dậu giữ chức vụ Đổng lý Văn phòng ủy viên Đặc biệt. Ông cũng được
cử làm một thành viên của ủy ban Hòa Giải (1946) với hai người khác là linh mục
Nguyễn Bá Luật (Công giáo) và Hoàng Dụ Khương (Việt Minh). Ông Mai Văn Dậu gốc
gác ở quận Ô Môn, tỉnh Cần Thơ như ông Trần Văn Soái, và cũng đã gặp ông này
nhiều lần.
Sau nhiều
buổi gặp gỡ các sĩ quan Pháp đại diện Thiếu tướng Pierre Boyer de la Tour Tư lịnh
quân đội Pháp kiêm ủy viên Cộng Hòa miền Nam, đại diện của Đại tá Cluzet tư lịnh
miền Tây, hai bên đi đến thỏa hiệp, ký kết một bản hiệp định liên quân ngày
18-5-1947. Về bản hiệp định này, có một số chi tiết cần được ghi nhận, mà ít
người được biết.
Trước nhứt
là sự hiện diện của bản Hiệp định. Các giới thường nghĩ rằng cuộc hợp tác này
là một sự “cầu cứu” của Phật Giáo Hòa Hảo với Pháp, và Phật Giáo Hòa Hảo đem
quân về thành hợp tác không có điều kiện gì, cũng không có căn bản pháp lý nào.
Nhưng sự thật khác hẳn, đó là một bản hiệp định mang chữ ký của hai bên, một
đàng là ông Trần Văn Soái, nhơn danh quân lực Phật Giáo Hòa Hảo-Dân Xã, một
đàng là Đại tá Cluzet, tư lịnh miền Tây Nam Việt, nhơn danh chánh phủ Pháp.
Luật sư
Mai Văn Dậu cho biết rằng, tuy là người rất ít chữ, ông Trần Văn Soái lại có
quan niệm minh bạch là: “hễ hợp tác thì phải có giấy tờ đàng hoàng, ký kết phân
minh” đây không phải việc làm ám muội mà phải giấu diếm thầm lén, nhứt là phải
có văn kiện để hai bên biết quyền hạn, bổn phận, theo đó mà làm. Trong ý nghĩ
đơn giản của ông Trần Văn Soái, thì người “yêng hùng” phải trọng lời nói, dù chỉ
là một lời nói miệng, không có giấy tờ cũng không được nuốt lời. Nhưng ông lại
chịu ảnh hưởng của “những việc giấy tờ” mà xưa kia ông bị buộc phải làm mỗi khi
đến “quan quyền”. Cho nên ngày nay, đứng ra làm một việc quan trọng, ông cho rằng
phải có giấy tờ đàng hoàng. Từ những ý nghĩ đó, ông nhứt định đòi với Pháp phải
ký kết một bản hiệp định.
Về bản chất
công việc, lúc đó đã xẩy ra tranh luận gay go giữa hai bên. Quan hệ nhứt là bản
chất cuộc hợp tác. Bên Phật Giáo Hòa Hảo đưa quan điểm rằng Pháp không thể xem
đây là Phật Giáo Hòa Hảo về đầu hàng Pháp, mà phải xem đây là Phật Giáo Hòa Hảo
liên quân với Pháp để đánh Cộng Sản. Nguyên Văn đoạn trao đổi ý kiến mà ông Mai
Văn Dậu nhắc lại là: ‘’Nous ne pouvons admettre d’être traités commme RALLIÉS,
nous demandons à être traités comme ALLIÉS”.
Các sĩ
quan Pháp cố nhiên cũng hiểu rằng họ ở thế mạnh, họ có thể cứ hứa cho phía Phật
Giáo Hòa Hảo hài lòng về hình thức, rồi về sau phần chủ động vẫn do họ nắm. Cho
nên họ nhượng bộ mọi yêu sách, họ sẵn sàng hứa hẹn sẽ thi hành hiệp định theo
tinh thần Liên Quân, bởi vậy, bản Hiệp định được gọi là Hiệp Định Liên quân.
Danh từ
Rallié và Allié, lúc đó được giải thích rộng rãi trong nội bộ Phật Giáo Hòa Hảo-Dân
Xã để giải đáp thắc mắc còn rất nhiều, xuất phát từ tinh thần kháng Pháp rất mạnh
trong khối tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo và đảng viên Dân Xã. Mới hôm qua còn cầm
súng và tuyên truyền chống thực dân Pháp, ngày nay lại ngồi chung với Pháp, dù
dưới bất cứ hình thức nào, cũng không khỏi làm cho người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo
thắc mắc, khó chịu, và thật sự đau lòng.
Vì tâm lý
tế nhị đó, mà danh từ “cộng tác” với Pháp cũng không được dùng, bởi trong thời
điểm đó, người ta chưa quên danh từ “collabo” mà kháng chiến Pháp đã dùng để kết
án phe Vichy của Pétain, Laval hợp tác với Đức Quốc Xã. Danh từ “liên quân” được
đưa ra, phân tích như một biểu hiện của bình đẳng trong hợp tác, thay vì chỉ
nói “cộng tác” suông có thể bị đồng hóa với “collabo”. Liên quân còn có ý nghĩa
quân sự, một cuộc hợp tác thuần túy quân sự, phi chánh trị, có thể được giải
thích là Phật Giáo Hòa Hảo chỉ hợp tác với quân đội Pháp, trong mục tiêu quân sự.
Còn các vấn đề chánh trị, vẫn giữ tinh thần riêng của mình, được hiểu là tinh
thần tranh đấu cho độc lập tự do.
Đó là những
lập luận chủ quan của phía Phật Giáo Hòa Hảo, cố gắng tránh các hậu quả tai hại
về sau, như phương pháp “giới hạn tai hại” của một việc làm chẳng đặng đừng, một
việc làm mà mình đã biết trước là không thể tránh được các hậu quả của nó.
Biết rằng
trong tình huống đó, trong thế kẹt lịch sử đó, không thể không hợp tác với Pháp
để tự vệ tự cứu, nhưng tinh thần yêu nước đã thể hiện mãnh liệt qua các hy sinh
xương máu của mấy năm kháng Pháp, không thể không gây những mặc cảm phức tạp
trong những con người Phật Giáo Hòa Hảo đã hấp thụ tư tưởng Tứ Ân từ Đức Phật
Thầy Tây An đến Đức Huỳnh Giáo Chủ, những con người đã thuộc lòng bao lời thơ
hùng tráng thiết tha yêu non sông đất nước của Giáo Chủ.
Những người
có trách nhiệm trong tổ chức Phật Giáo Hòa Hảo lúc đó cũng hiểu rằng các sĩ
quan Pháp ngồi trước mặt mình, phần nhiều là sĩ quan gốc tình báo, đều là loại
cáo già, dù có tươi cười lịch thiệp, nhượng bộ ngoài mặt đó, nhưng sẽ không chấp
nhận thể hiện cái tinh thần hợp tác bình đẳng trong thực tế công việc.
Điều giản
dị nhứt là họ nắm nguồn tiếp liệu chiến đấu, kể cả võ khí, đạn dược, tài chánh,
và quyền hành. Chánh phủ Nam phần Việt Nam lúc đó do ông Lê
Văn Hoạch làm Thủ tướng ởSaigon, còn không có “bình đẳng hợp tác” nữa là.
Có một điều
quan trọng cần được minh xác:
Đó là thời
điểm 15-3-1947, mà trong tài liệu của Savani đã ghi là ngày ông Trần Văn Soái
đem 2.000 quân sĩ về Cái Vồn (Bình Minh) để hợp tác với quân đội Pháp. Đây có
thể là một sai lầm đánh máy, mà cũng có thể là một ác ý của phòng nhì Pháp, bóp
méo tài liệu lịch sử. Sự thật, ngày 15-3-1947, ông Trần Văn Soái còn có mặt bên
cạnh Huỳnh Giáo Chủ trên hành trình từ chiến khu miền Đông về miền Tây, và ngày
Huỳnh Giáo Chủ đi phó hội với Việt Minh và bị ám hại (16-4-1947), ông Trần Văn
Soái có mặt tại Đồng Tháp, thì làm sao ông lại có thể kéo quân ra tại Cái Vồn
ngày 15-3-1947 được? (tức trước đó hơn một tháng.) (*)
Sở dĩ cần
thiết phải minh xác thời điểm này, vì trong tài liệu của Việt Minh thường viện
cớ rằng Phật Giáo Hòa Hảo bí mật liên lạc với quân đội Pháp, như là một hành động
thông đồng với giặc. Nếu ngày 15-3-1947 mà ông Trần Văn Soái đã kéo
binh ra Cái Vồn hợp tác với Pháp, thì lời tố cáo của Việt Minh là đúng.
Nhưng sự
thực là: tài liệu của Pháp sai, hoặc do vô ý hoặc do ác ý. Đây là điều cần được
minh xác.
8- Lược Dịch
Bản Hiệp Định Liên Quân Pháp Hòa Hảo
Điều 1. Tất
cả tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo được bảo đảm tự do tín ngưỡng trên khắp miền Tây
Nam Việt.
Điều 2.
Quân đội Phật Giáo Hòa Hảo dưới sự chỉ huy của ông Trần Văn Soái tự Năm Lửa được
quyền bảo vệ tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo chống lại Việt Minh, hoặc bằng phương tiện
cơ hữu, hoặc phối hợp hành quân với quân đội Pháp.
Điều
3. Về mặt hành chánh, tổ chức Hòa Hảo tôn trọng luật lệ chung, các nguyện
vọng của Hòa Hảo được tôn trọng. Phật Giáo Hòa Hảo được quyền có đại diện tương
xứng với dân số, trong các hội đồng lâm thời cấp tổng và tỉnh.
Điều 4. Tín
đồ Hòa Hảo từ chối mọi cộng tác với Việt Minh, và trục xuất mọi cơ quan, nhân sự,
hoạt động của Việt Minh ra khỏi các khu vực Hòa Hảo.
Điều 5.
Quân lực Hòa Hảo gồm có: các đơn vị lưu động dân quân cách mạng Dân Xã Đảng đặt
dưới quyền chỉ huy của ông Trần Văn Soái. Các đội Bảo An, tự vệ được võ trang bởi
tỉnh trưởng, hoạt động theo quy chế địa phương, dưới hệ thống hành chánh địa
phương.
Sự chỉ
huy của tất cả các đơn vị này hoàn toàn do sĩ quan Hòa Hảo đảm nhận.
Điều 6. Chi
tiết điều hành vấn đề võ trang và tiếp liệu.
Điều 7. Quân
lực Hòa Hảo hoạt động một mình, nhưng có thể yêu cầu quân đội Pháp yểm trợ khi
họ xét cần.
Điều 8.
Các chi tiết về hành quân phối hợp.
Điều 9. Tín
đồ và quân lực Phật Giáo Hòa Hảo thông báo mọi tin tức về tình hình địch cho
nhà cầm quyền quân sự và hành chánh.
Điều 10. Các
văn phòng liên lạc được đặt tại Cần Thơ, Long Xuyên, Châu Đốc, Sa Đec và Vĩnh
Long, với nhiệm vụ phối trí.
Điều 11. Quân
lực Hòa Hảo có quân kỳ mầu dà với bốn chữ tắt “P.G.H.H.”, quân sĩ đội nón cũng
màu dà.
Điều 12.
Bản hiệp định này có giá trị cho đến khi Giáo Chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ trở về,
và sẽ trình lên Ngài phê chuẩn.
Điều 13. Không
một văn kiện nào khác được ký kết ở cấp địa phương, nếu không có sự đồng ý của
những người đã ký hiệp đình này.
Ngày 18
tháng 5 năm 1947
Ký tên:
Trần Văn Soái và Cluzet
Điều lo lắng
của các chiến sĩ quốc gia khi từ giã khu chiến để về thành hợp tác, đều giống
nhau: sợ rằng lòng yêu nước và sự nghiệp đấu tranh bấy lâu nay sẽ bị hiểu lầm
và đồng hóa với các hành động vì mục đích danh lợi. Điển hình là khi phong trào
Kháng chiến Liên minh của tướng Trình Minh Thế bỏ chiến khu Bà Đen về hợp tác với
ông Ngô Đình Diệm năm 1955, ông Nhị Lang, cố vấn chánh trị của phong trào, đã
phải thắc mắc khá nhiều về danh từ “hợp tác” và “cộng tác” (collabo). Như ông
đã viết trong cuốn sách ‘’Phong trào Kháng chiến Trình Minh Thế’’.
Tôi luôn
luôn nhấn mạnh (với ông Ngô Đình Diệm) tới hai chữ “hợp tác” chứ không phải “cộng
tác” như báo chí Saigon đã ngộ nhận. Sở dĩ chúng tôi tranh đấu tới cả một danh
từ nhỏ nhặt, cũng vì chúng tôi không muốn đời ngộ nhận chúng tôi “chạy theo bả
lợi danh”, đi làm tay sai cho một thế lực khác. Chúng tôi muốn chứng tỏ với Thủ
tướng Diệm, với ông cố vấn Nhu rằng chúng tôi nhận lời mời trên một cương vị “đồng
minh” ngang hàng, trên tình hiểu biết và tương kính lẫn nhau. Có thế thì việc
trở về của chúng tôi mới có ý nghĩa... (*)
9- Chánh
Sách Chia Rẽ Của Pháp
Trong
thâm tâm, Pháp không muốn Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng (gọi tắt Dân Xã) ảnh hưởng
chính trị đến các đơn vị quân sự Phật Giáo Hòa Hảo. Và họ đã định sẵn chủ
trương “coi như không có Dân Xã”. Điều cần thiết chính yếu của Pháp là khả năng
quân sự của các đơn vị võ trang Phật Giáo Hòa Hảo-Dân Xã, đóng góp vào công tác
bình định lãnh thổ miền Hậu Giang, chớ không phải các hoạt động chánh trị. Càng
không phải các yêu sách chánh trị đòi hỏi chủ quyền quốc gia độc lập mà Dân Xã
chủ trương.
Nghiên cứu
lập trường Dân Xã Đảng, Pháp thấy rằng chủ trương độc lập quốc gia và thống nhất
lãnh thổ của đảng này, rõ ràng đối nghịch tham vọng tái lập chủ quyền thực dân
Pháp, và chánh sách “chia để trị” cố hữu của họ. Pháp nhìn cấp lãnh đạo Dân Xã
Đảng như các phần tử gây rối, phải bị loại ra ngoài.
Ở thời điểm
1947, Pháp chỉ muốn nghe nói đến “tự trị” chớ không thích nghe nói đến “độc lập”.
Pháp chỉ muốn cho Việt Nam tự trị trong khuôn khổ Liên Hiệp Pháp, như
một quy chế thuộc địa tiến bộ hơn trước. Cho nên Pháp không thể chấp nhận các
quan điểm cách mạng của Dân Xã Đảng.
Sau đây
là một quan điểm của tình báo Pháp về Dân Xã: ... Mấy ngày sau khi bản thỏa hiệp
án 14-9-1946 ra đời, (bản Modus Vivendi ký kết giữa Hồ Chí Minh và Marius
Moutet tại Paris), các thành phần thuộc Mặt Trận Quốc Gia họp tại Bà Quẹo (Hóc
Môn), đảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội ra đời ngày 21-9-1946. Nguyễn Văn Sâm, Trần
Văn Ân, Nguyễn Hoàn Bích tự Nguyễn Bảo Toàn và Huỳnh Phú Sổ cùng với Mai Văn Dậu,
một luật sư không có văn phòng, thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, gọi tắt
là Dân Xã, mà Nguyễn Văn Sâm và Giáo Chủ là đại biểu. Nguyễn Văn Sâm nhờ đó mà
tìm được hậu thuẫn quần chúng, và Huỳnh Phú Sổ thì từ đây bước vào đấu tranh
chánh trị.
Đảng Dân
Xã nói rằng đã liên kết được mọi thành phần dân tộc không phải là Việt Minh,
nhưng thực sự đó là ý đồ của Nguyễn Văn Sâm, chánh trị hóa khối tín đồ Phật
Giáo Hòa Hảo để tạo thành một hậu thuẫn mạnh mẽ của ông ta...
Cơ cấu tổ
chức Dân Xã khởi đầu từ cấp Chi bộ tại Xã lên Trung Ương tại Saiogn, qua các cấp
bộ Tỉnh và Liên Tỉnh. Chủ trương và đường lối Dân Xã vừa chống Cộng vừa chống
Pháp, và như thế khó có thể được phe Cộng Sản Staline ở Việt Nam chấp nhận...
Với quan
điểm đó về Dân Xã Đảng, theo như tài liệu phân tích của đệ nhị phòng, tình báo
quân sự Pháp, chủ tâm của Đại tá tư lịnh miền Tây Cluzet và Tướng Boyer de la
Tour là không nói chuyện với Dân Xã Đảng, không đề cập các vấn đề chánh trị, chỉ
giới hạn trong phạm vi hợp tác quân sự và địa phương giữa Pháp và các đơn vị võ
trang Phật Giáo Hòa Hảo.
Luật sư
Mai Văn Dậu, người được ủy nhiệm thay mặt cơ quan quân chính tối cao Phật Giáo
Hòa Hảo-Dân Xã để thương thuyết với Pháp, đã phải giữa đêm lén leo qua cửa sổ
nơi ông tạm trú trong thời gian thương thảo, để cùng với mấy đồng đạo thân tín
trốn thoát từ Cần Thơ về Thánh Địa Hòa Hảo bằng đường riêng. Ông tiết lộ âm mưu
của Pháp và sự thất bại của mình, không đạt được mục tiêu mà cơ quan lãnh đạo
Phật Giáo Hòa Hảo-Dân Xã đã ấn định cho ông để đi thương thuyết.
Người viết
sách này còn nhớ hình ảnh luật sư Mai Văn Dậu lúc về tới Thánh Địa Hòa Hảo, mặc
bộ quần áo bà ba đen như một nông dân, quần rách te tua, chân đi đất, cặp kiếng
cận bị bể, sắc mặt bi quan, xổ một tràng tiếng Pháp nguyền rủa âm mưu và dã tâm
của Pháp. Ông cho biết rằng, nếu ông không trốn về giữa ban đêm, thì thế nào
Pháp cũng giết ông hay bắt giam ông.
Thật ra,
theo ý kiến của giới lãnh đạo chánh trị Dân Xã Đảng lúc đó, họ cũng đã tiên liệu
rằng Pháp đang ở thế thượng phong sẽ không chấp nhận bốn điểm lập trường Dân
Xã. Nhưng dù biết vậy, Dân Xã vẫn cứ phải đưa ra như một biện minh trạng lịch sử
cho sự bảo thủ lập trường tranh đấu và thái độ trung thành với lập trường mà Đảng
đã công bố khi thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng.
Cuộc
thương thuyết này cũng là hình ảnh thu hẹp của những cuộc thương thảo giữa Pháp
và Chánh phủ Nam Kỳ Tự Trị của bác sĩ Nguyễn Văn Thinh năm 1946, và sau này các
chánh phủ của Cựu Hoàng Bảo Đại từ 1948. Pháp đã biểu lộ chủ trương cứng rắn và
thái độ ngoan cố. Pháp không muốn hành động như Anh quốc tự ý trao trả chủ quyền
độc lập cho các thuộc địa Mã Lai, Ấn Độ theo một kế hoạch chuyển quyền tuần tự.
Pháp cố níu kéo, duy trì quyền lợi đế quốc tại Đông Dương, dù biết rằng phải
tiêu phí sinh mạng thanh niên Pháp và ngân quỹ quốc gia. Rốt cuộc về sau, Pháp
vẫn phải ra đi, nhưng khi còn có thế lực tại Đông dương, Pháp vì tham vọng mà
trở thành mù quáng, không nhìn thấy viễn tượng tất nhiên là sự bắt buộc phải ra
đi khỏi Việt Nam, để mà có thái độ thích nghi kịp thời.
Cũng vì
thế mà Pháp đã làm cho Cộng Sản Việt Minh có được “chánh nghĩa kháng chiến”, và
ngược lại, làm hoen ố chánh nghĩa của các giới tranh đấu có khuynh hướng dân tộc.
Các giới cách mạng quốc gia tranh thủ độc lập quốc gia qua giải pháp hợp tác
hòa bình với Pháp, đồng thời tránh cái họa dịch chủ tái nô, chủ Pháp đi chủ Nga
đến, lúc đó phải kẹt vào cái thế hợp tác với Pháp, nhưng không phải hợp tác để
làm nô lệ cho Pháp, mà hợp tác để tranh thủ chủ quyền độc lập bằng đường lối
hòa bình. Pháp đã ngoan cố tham lam, làm cho giải pháp Bảo Đại mất giá trị, và
chế độ Bảo Đại mất chánh nghĩa.
Hoàn cảnh
của giới lãnh đạo Phật Giáo Hòa Hảo-Dân Xã khi vị Giáo Chủ vắng mặt đột ngột
sau biến cố 16-4-1947, cũng bi đát và khó khăn như thế, cũng vẫn phải “liên
quân” hợp tác, và đối diện với những chức quyền quân sự chánh trị của Pháp tại
Việt Nam, trong một vị trí thất thế rõ ràng cho phía Phật Giáo Hòa Hảo-Dân Xã.
Thời gian
tiếp theo sau khi ký kết bản hiệp định 18-5-1947, là thời kỳ Pháp thi hành một
chánh sách hai mặt: Một mặt Pháp võ trang thêm các đơn vị quân sự Phật Giáo Hòa
Hảo để trục xuất các đơn vị Cộng Sản khỏi khu vực Hậu Giang một cách có hiệu quả
rõ rệt và mau chóng; nhưng mặt khác, Pháp cương quyết ngăn chận, cấm đoán các
hoạt động chánh trị của đảng Dân Xã, không ngần ngại bắt giam cán bộ Dân Xã, từ
cấp lãnh đạo trở xuống.
Trong cuộc
phỏng vấn một nhân vật Phật Giáo Hòa Hảo có hiểu biết về cuộc thương thuyết
Pháp-Phật Giáo Hòa Hảo năm 1947, và có quen biết với luật sư Mai Văn Dậu, nhân
vật này tiết lộ rằng sau khi bản hiệp định liên quân 18-5-1947 được báo cáo lên
Bộ tư lịnh Pháp ở Đông Dương và được phúc trình về Paris, thì Đại tá Cluzet bị
triệu hồi về Pháp, rồi bị khiển trách bởi lý do đã ký kết một văn kiện mà theo
nguyên tắc, không thể được ký kết, với hình thức và ngôn từ không thể chấp nhận
được. Điều này còn nói rõ thêm về dã tâm và thái độ ngoan cố của thực dân Pháp,
từ bản tuyên ngôn Brazzaville 1945 của Tướng De Gaulle đến Chánh phủ Mendès
France 1954, chỉ nghĩ đến tham vọng quyền lợi Pháp, không bao giờ lưu tâm đến
niềm đau khổ và ước vọng của mấy chục triệu dân Việt Nam.
10- Tách
Phật Giáo Hòa Hảo Ra Khỏi Dân Xã
Ngay từ
những tháng đầu tiên sau khi ký hiệp định liên quân, Đại tá Cluzet đã làm một tờ
trình lên thượng cấp, đề nghị chánh sách đối phó với Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng,
sau khi đệ nhị phòng của ông báo cáo về một tài liệu do ông Trần Văn Soái ký
tên, tuyên bố đường lối hoạt động của ông theo chương trình Dân Xã Đảng mà Huỳnh
Giáo Chủ đã vạch ra, một chương trình biểu lộ đường lối cách mạng đòi độc lập,
và chủ trương cải tạo xã hội theo mô thức dân chủ xã hội.
Trong tài
liệu phổ biến, vẫn giữ nguyên vẹn những điểm căn bản của bản Tuyên ngôn và
Chương trình hành động Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng ban hành từ ngày 21-9-1946.
Theo sự
phân tích của đệ nhị phòng Pháp, thì tài liệu phổ biến này là của các cán bộ
Dân Xã viết ra, và ông Trần Văn Soái ký tên phổ biến. Pháp kết luận rằng phải cấp
tốc ngăn chận ảnh hưởng Dân Xã đối với ông Trần Văn Soái, phải tách hẳn tổ chức
quân sự Phật Giáo Hòa Hảo khỏi ảnh hưởng Dân Xã, thì Pháp mới nắm được chủ động,
và mới tránh được những rắc rối về sau.
Thật ra,
chủ trương này của Pháp đã sẵn có từ khi ký kết bản hiệp định liên quân, trong
đó không đả động gì đến vai trò của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng. Chỉ ở điều
khoản 5, có ghi một câu rằng: “quân lực Hòa Hảo gồm các đơn vị lưu động Dân
quân cách mạng Dân Xã Đảng đặt dưới quyền chỉ huy của ông Trần Văn Soái...” còn
lại toàn bộ bản hiệp định 13 điều khoản là một sự giao ước với ông Trần Văn
Soái trong tư cách Tổng Tư lịnh quân lực Hòa Hảo. Một câu văn được gạch đít để
nhấn mạnh rằng: “Sự chỉ huy của tất cả các đơn vị này hoàn toàn do sĩ quan Hòa
Hảo đảm nhận” (điều 5). Câu này có hai nghĩa: một là Dân Xã Đảng không liên hệ
gì đến quân lực Phật Giáo Hòa Hảo, và hai là tính cách tự trị chỉ huy đơn vị,
không có sĩ quan Pháp chỉ huy các đơn vị Hòa Hảo.
Trong các
bản nhận định của Pháp về Phật Giáo Hòa Hảo lúc đó, khi đề cập đến Dân Xã, họ
luôn luôn cho rằng đây là những thành phần bài ngoại chống Pháp, nguy hại cho
chánh sách của Pháp. Mặt khác, Pháp cũng cho rằng Dân Xã là cái đầu chánh trị,
do một nhóm chánh khách Saigonmuốn nắm lấy Phật Giáo Hòa Hảo làm hậu thuẫn.
Trong bản
thuyết trình của Thiếu tá De Mallerey chỉ huy văn phòng phái bộ liên lạc với Phật
Giáo Hòa Hảo, ông nhận xét rằng: ‘’... Chúng ta cần đặt đảng Dân Xã ra ngoài
vòng pháp luật, và bắt các lãnh tụ Dân Xã phải chịu hết trách nhiệm về những vụ
lộn xộn xẩy ra trong hàng ngũ Phật Giáo Hòa Hảo... Từ Saigon, Dân Xã cho người
đưa các khẩu hiệu về miền Tây để gây rối. Những chánh khách không quần chúng ấy
lúc nào cũng thèm thuồng có một tổ chức kháng chiến (chống Pháp) để lấy thế, họ
liên lạc với Hương Cả Bộ (thân sinh Huỳnh Giáo Chủ) rồi những truyền đơn được
tung ra loan báo tin Đức Thầy sắp xuất hiện. Thú thật, phái bộ chúng tôi không
ưa những phần tử này...’’ Thực sự Pháp đã hành động, trực tiếp và gián tiếp,
đánh phá đảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội, dưới nhiều hình thức. Đầu tiên là tìm
cách bắt bớ các cán bộ lãnh đạo và cao cấp của Dân Xã Đảng. Trong bản báo cáo của
De Mallery có ghi rõ: “chúng ta đã bắt Lê Văn Kinh, thủ lãnh Dân Xã, nhưng ông
ta trốn thoát được vào tháng 5 (1948) và hiện ẩn náu tại vùng Hòa Hảo”. Rất nhiều
cán bộ cao cấp và trí thức của Dân Xã đã bị khủng bố, bắt giam. Số cán bộ này gồm
có tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, và có thêm khá nhiều nhân vật không phải gốc tín đồ
Phật Giáo Hòa Hảo nhưng chấp nhận gia nhập Dân Xã như quý ông Nguyễn Văn Sâm,
Trần Văn An, Nguyễn Bảo Toàn, Lê Văn Thu, Đặng Văn Ký, và khá nhiều người khác
mà tên tuổi không được bên ngoài biết.
Khi Pháp
mở chiến dịch khủng bố Dân Xã, các cán bộ không phải tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo
phải bỏ miền Tây chạy lui trở về Saigon ẩn náu; còn những cán bộ gốc tín đồ Phật
Giáo Hòa Hảo đang giữ những chức vụ quan trọng, đều bị bắt giam. Thủ đoạn của
Pháp lúc đó là sau một thời gian giam giữ, họ trao lại cho ông Trần Văn Soái để
ông này “bảo lãnh cho đồng đạo được tự do.”
Tại
Saigon, Ban Chấp hành Trung Ương Dân Xã Đảng bị Pháp làm cho tan rã. Hai vụ ám
sát xẩy ra năm 1947: ông Nguyễn Văn Sâm bị bắn chết trên xe buýt tại Chợ lớn
trong ngày lễ Song Thập, quốc khánh Trung Hoa. Bác sĩ Trần Văn Tâm bị bắn tại
nhà ở Gia Định, giữa đêm, khi ông đang cúng lạy trước bàn thờ Phật.
Về cái chết
của ông Nguyễn Văn Sâm, ủy viên Ngoại giao Ban Chấp hành Trung ương Việt Nam
Dân Chủ Xã Hội Đảng, ông Trần Văn Ân thuật lại như sau:
‘’...Ngày
10-10-1947, khi đi dự lễ Quốc khánh Song thập của Trung Quốc cùng với tôi, giữa
đường Nguyễn Văn Sâm bị ám sát trên con đường Cây Mai, gần Tổng đốc Phương
(Cholon), ngay trên xe bus, lúc quá 6 giờ chiều. Bạn chúng tôi, một người Pháp,
có hỏi trưởng ty công an rằng: “Sao trước mấy giờ anh không bắt chúng nó, lại bắt
sau mấy giờ?”. Không có câu trả lời. Tôi xin gặp thủ phạm, cũng không hề được gặp’’.
Về cái chết
của bác sĩ Trần Văn Tâm, ủy viên Tài chánh Ban Chấp hành Trung ương Việt Nam
Dân Chủ Xã Hội Đảng, ông Trần Kim Thiện, Trưởng Nam của Bác sĩ thuật lại như
sau:
‘’...Đêm
đó vào khoảng 4 giờ sáng, cha tôi đang cúng lạy trước bàn Phật. Một nhóm người
đột nhập nhà tôi bằng cách leo tường cậy cửa. Cha tôi lên tiếng, thì bị chúng bắn
chết ngay tại chỗ. Thủ phạm đeo mặt nạ, không để lại giấy tờ chi cả. Về sau
chúng tôi cũng không được biết thủ phạm là ai, chỉ được phía chánh phủ Lê Văn
Hoạch cho hay rằng đã bắt được kẻ ám sát cha tôi, và đó là một tên Việt Minh...
Cha tôi không hề có kẻ thù nào, nên không thể xem đây là một cách trả thù cá
nhân. Nhứt định là một vụ ám sát có tính cách chánh trị. Trước đó, cha tôi có
được mời tham gia chánh phủ, nhưng ông đã từ chối, tôi không biết thái độ đó có
liên hệ gì đến vụ ám sát này chăng?’’ (*)
Hai vụ ám
sát này, Pháp đổ tội cho Việt Minh, nhưng đến nay vẫn chưa có tài liệu minh định
thủ phạm. Dư luận lúc đó còn nghi là Pháp chủ động, hoặc tự mình thực hiện vụ
ám sát, hoặc tìm cách cung cấp tin tức và gián tiếp yểm trợ cho ban ám sát đô
thành Saigon-Cholon của Việt Minh ra tay. Nghi vấn cho rằng cả hai vụ ám sát
các ông Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Tâm đều do sự đồng lõa giữa Pháp và Việt Minh,
vì đồng quyền lợi, là nghi vấn có xác suất cao và khả tín nhứt.
Một ủy
viên Trung ương Dân Xã Đảng khác là ông Trần Văn Ân, lúc đó đang giữ chức vụ Tổng
trưởng Thông tin Chánh phủ Lâm thời Nam phần Việt Nam, cũng bị Tướng Tư lịnh
Pháp tại miền Nam Boyer de la Tour làm áp lực buộc Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân
tìm cách đẩy ông Ân khỏi nội các, và buộc ông Ân phải rời khỏi Việt Nam với lời
hăm dọa tối hậu thơ rằng nếu không làm thế trong hạn định, thì sẽ “không bảo đảm
tính mạng...”. Trong bài hồi ký viết về “Vui buồn trong nghề làm báo”, ông Ân
có ghi lại về điểm này:
Khi Tướng
Nguyễn Văn Xuân lập chánh phủ, có mời tôi tham gia chức vụ Tổng trưởng Thông tin.
Tôi về thảo luận trong Ban chấp hành Trung ương Dân Xã Đảng, đưa ra ba điều cần
phải đạt được. Đó là:
1. Thay
đổi danh xưng chánh phủ Nam Kỳ thành Chánh phủ Lâm thời Nam phần ViệtNam,
đặt nền tảng cho sự thống nhứt quốc gia từ đây,
2. Làm
mọi cách cho quân lực các giáo phái trở thành quân cách mạng để chờ ngày trực
diện đánh Cộng Sản,
3. Định
nghĩa sự tham chánh của Dân Xã, dù rằng tôi tham gia với tư cách cá nhân, nhưng
vẫn phải có đường lối và thái độ của Dân Xã. Chúng tôi nghĩ rằng làm được ba điều
này là đủ “lấy vốn” rồi.
Quả vậy,
tôi đã tròn sứ mạng, nhưng tai họa xẩy ra ngay: vài ngày sau, anh Nguyễn Văn
Sâm, ủy viên Ngoại giao Trung ương Dân Xã bị ám sát chết tại Chợ Lớn. Rồi mấy
tháng sau, tôi bị viên tướng Pháp Boyer De la Tour đòi Thủ tướng Xuân buộc tôi
phải bỏ nước ra đi. Tôi đã phải ra đi, sau một tháng dằng co với Tướng De la
Tour, ông này viết thơ cho Thủ tướng Xuân nói “dépassé 24 heures je ne
répondrai plus de sa sécurité”. Ông Xuân hoảng, tôi liền trấn tĩnh bảo rằng: “họ
nói ra, là họ không muốn giết”, vậy Thủ tướng làm thinh coi ra sao. Tuần lễ
sau, lại thêm một lá thư gửi cho Tướng Nguyễn Văn Xuân, “de l’Armée Francais” bảo:
“vous êtes entrain de soutenir un homme qui sabre l’oeuvre du Corps
Expéditionnaire francais”. Tôi cũng nói ông Xuân làm lơ thêm một tuần nữa. Sau
một tuần lễ, De la Tour nhắc lại hai thơ trước, tôi liền thưa với Thủ tướng:
“tôi đã lo liệu xong, thay vì vào bưng phải chịu cả hai mặt, tôi qua Pháp mở mặt
trận ngoại giao”. Thế rồi tôi đi Pháp làm như ý định; anh Lâm Ngọc Đường chủ
trương đi vào bưng, sau bị giết một cách thê thảm, bị đóng vào các khiếu trong
con người’’.
Vào giữa
năm 1948, Pháp chỉ thị một cuộc hành quân bao vây vùng Hiệp Xương, phía sau
thánh địa Hòa Hảo, để lùng bắt Ban Chấp hành Liên Tỉnh miền Tây Dân
Xã Đảng hiện đang ẩn náu và đặt văn phòng tại đây. Cuộc hành quân có mục đích đập
tan bộ máy đầu não của Dân Xã, bắt các cán bộ lãnh đạo, phá cơ sở văn phòng, cơ
quan ấn loát, tuyên huấn, bóp chết tờ báo Dân Xã và dẹp tan các lớp huấn luyện
cán bộ Dân Xã.
Vì là một
chánh đảng kháng chiến, nên Dân Xã Đảng mở các lớp đào tạo cán bộ chánh trị, gọi
là “khóa Huấn chính”, và các khóa huấn luyện quân sự, gọi là “khóa Quân chính”,
trong những làng quận vùng Thánh Địa Hòa Hảo, với ý nghĩ rằng dù sao Pháp cũng
nể mặt ông Hương Cả Huỳnh Công Bộ, thân sinh Huỳnh Giáo Chủ, mà không dám trắng
trợn xâm nhập vùng đất thánh của Phật Giáo Hòa Hảo. Nhưng Pháp đã không có sự
kiêng nể đó, và đã đạt được mục tiêu phá vỡ tổ chức đầu não của Việt Nam Dân Chủ
Xã Hội Đảng.
Pháp chỉ
còn điểm tự chế là đã không dám bắt giam ông Hương Cả Bộ, mặc dù họ biết rõ
ràng ông đã bảo trợ và che chở cho Ban Chấp hành Liên Tỉnh Việt Nam Dân Chủ Xã
Hội Đảng hoạt động tại vùng Thánh Địa.
Sau trận
càn quét khủng bố này, bộ máy Dân Xã bị tê liệt, ban Chấp Hành Liên Tỉnh tuyên
bố đình chỉ công tác (1948). Cả ba tờ báo Quần Chúng tại Saigon, Dân Xã ở miền
Tây, và Nợ Nước của cơ quan tuyên huấn, đều tự ý đình bản. Pháp đã thắng một bước
trong kế hoạch tách khối quân sự Phật Giáo Hòa Hảo ra khỏi bộ máy đầu não chính
trị Dân Xã.
Tổ chức
Phật Giáo Hòa Hảo khi còn giới hạn trong hoạt động tôn giáo (1939-1945), khối
quần chúng được lãnh đạo bởi uy quyền tuyệt đối của vị Giáo Chủ. Nhưng khi chuyển
sang đấu tranh, cần có cương lãnh chánh trị, và một bộ máy lãnh đạo chánh trị bởi
Huỳnh Giáo Chủ đã nhận thức nhu cầu này, nên thực hiện công thức kết hợp hậu
thuẫn quần chúng Phật Giáo Hòa Hảo với giới trí thức có khả năng chánh trị và
thành tích cách mạng. Bộ máy lãnh đạo chánh trị Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng có
thể vận dụng sức mạnh quần chúng để tăng cường hiệu năng đấu tranh, và từ đó,
đưa tổ chức nông dân Phật Giáo Hòa Hảo lên bình diện quốc gia, thực hiện các mục
tiêu chánh trị và xã hội của Dân Xã Đảng.
Cố nhiên
điểm này làm cho thực dân Pháp lo ngại và phải đối phó. Một đối thủ gồm có khối
quần chúng đông đảo trên một triệu người kết hợp nhau bằng lý tưởng tín ngưỡng
và yêu nước, được lãnh đạo bởi một vị Giáo Chủ có uy quyền tuyệt đối, nay lại
thêm một bộ tham mưu chánh trị gồm các nhân vật trí thức tranh đấu có tên tuổi
và thành tích cách mạng. Đó là đã hội được hai yếu tố căn bản cần thiết là lãnh
đạo và quần chúng, để trở thành một tổ chức có thực lực trong xã hội Việt Nam ở
thời kỳ đó. Nếu cộng thêm sức mạnh quân sự đang phát triển, tổ chức này sẽ là một
mối lo âu, nếu Pháp không nắm vững ưu thế chi phối
Bản tuyên
cáo sau đây của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng phổ biến vào cuối năm 1948, là một
tài liệu biểu lộ đường lối chủ trương lúc đó của Dân Xã, ủng hộ giải pháp Bảo Đại,
và nhìn thấy trước hậu quả tai hại của chánh sách mập mờ lưỡng lự của chánh phủ
Pháp, mà động lực vẫn là tham vọng đế quốc.
Từ hai
năm qua Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng đã nhiều lần biểu lộ sự ủng hộ Cựu Hoàng Bảo
Đại trong việc thương thuyết Việt-Pháp để thực hiện độc lập thống nhứt thực sự
của đất nước.
Hiện nay,
Cộng Sản Quốc tế đang âm mưu xen vào nội tình nước Việt Nam, với kế hoạch ủng hộ
Việt Minh Cộng Sản, trong khi đó chánh phủ Pháp còn lưỡng lự đối với giải pháp
Bảo Đại.
Nhơn danh
một đoàn thể có trên hai triệu người và quân đội Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng,
và đồng ý với các chánh đảng, chiến sĩ quốc gia kháng chiến, chúng tôi long trọng
tuyên bố rằng chỉ có một chánh quyền thực sự độc lập và thống nhứt do Cựu Hoàng
Bảo Đại lãnh đạo, là có đủ uy lực tái lập trật tự an ninh tại Việt Nam.
Để phục vụ
hòa bình thế giới mà các quốc gia dân chủ hằng theo đuổi, chúng tôi kêu gọi
chánh phủ Pháp lập tức tiếp tục các cuộc thương thuyết với Cựu Hoàng Bảo Đại để
giải quyết vấn đề Việt Nam, nhìn nhận chánh thức nền độc lập thống nhứt thực sự
của quốc gia Việt Nam.
Nếu trong
những ngày sẽ tới, do chánh sách đàn áp, lưỡng lự và chia rẽ của chánh phủ
Pháp, mà bọn Cộng Sản quá khích có thêm cơ hội và phương tiện gây tổn hại cho
Việt Nam, thì chánh quyền Pháp phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước dư luận thế
giới, trước dân tộc Việt Nam và trước dân tộc Pháp, một dân tộc đã có truyền thống
yêu chuộng tự do, công lý và nhân đạo.
Làm tại
miền Tây Nam Việt ngày 6-12-1948
Việt Nam Dân
Chủ Xã Hội Đảng.
Qua những
liên hệ có sẵn giữa Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng và các tổ chức quốc gia lúc
đó, đã có sự đồng ý trên nguyên tắc về chủ trương sử dụng lá bài Bảo Đại để tạo
thế quốc tế của Việt Nam đương đầu lại cái thế mà Hồ Chí Minh đã tiếm đoạt.
Trên
phương diện pháp lý quốc gia, mặc dầu Cựu Hoàng Bảo Đại đã tuyên bố thoái vị
năm 1945, và đã trở thành Cố vấn tối cao của chính phủ Hồ Chí Minh, nhưng không
vì thế mà ông mất hẳn tính chất chánh thống trong sự tiêu biểu cho uy quyền quốc
gia. Hơn nữa, thế giới bên ngoài và các giới cách mạng Việt Nam đều thấy rõ rằng
đảng Cộng Sản Việt Nam đã cướp đoạt cách mạng tháng 8-1945 của toàn dân Việt
Nam, lợi dụng tinh thần yêu nước và sự hy sinh của dân tộc để phục vụ cho chủ
nghĩa riêng của họ, qua chánh sách “dĩ đảng trị quốc.”
Riêng phần
nước Pháp, họ cũng bắt đầu mở mắt thấy rằng khi họ ký kết hiệp ước sơ bộ
6-3-1946 và thỏa hiệp án 14-9-1946 với Hồ Chí Minh, là đã ký những bản văn lừa
bịp lẫn nhau, mà hậu quả bây giờ là không giải quyết được vấn đề Việt Nam theo
như tham vọng của họ. Giới chánh trị và quân sự Pháp tại Đông Dương đều nhìn thấy
thủ đoạn khôn khéo của Hồ Chí Minh, là nhượng bộ bề ngoài đối với Pháp mà đạt
cái thế chánh quyền tại Việt Nam, để hợp thức hóa quyền đại diện Việt Nam của Hồ
Chí Minh đối với thế giới. Nhưng sau khi đã đạt các mục tiêu này, đảng Cộng Sản
Việt Minh phát động chiến tranh toàn diện, làm cho nước Pháp nhìn thấy viễn ảnh
giải quyết vấn đề Việt Nam theo ý đồ của Paris không bao giờ có thể thành tựu.
Trong bối
cảnh chánh trị đó, các giới cách mạng quốc gia thấy cần thiết phải có một giải
pháp khác để lấy lại chủ động đối với Pháp. Con người Cựu Hoàng Bảo Đại lúc đó
được xem là có vị thế tốt nhứt để tiêu biểu cho giải pháp quốc gia, đại diện
dân tộc mà đứng ra thương thuyết với Pháp.
Pháp cũng
nhìn thấy như vậy, nhưng vì vẫn còn mù quáng bởi tham vọng thuộc địa, cho nên
thay vì thành thật hợp tác để giúp cho giải pháp này thành tựu tốt đẹp, trao trả
độc lập thực sự cho Việt Nam qua giải pháp Bảo Đại, để tạo tâm lý thuận chiều
trong quần chúng xa rời Việt Minh, thực dân Pháp lại quan niệm giải pháp Bảo Đại
như một yếu tố để dọa dẫm Hồ Chí Minh, đồng thời dùng yếu tố Hồ chí Minh để dọa
dẫm lại Bảo Đại. Đó là lối ‘’đòn xóc hai đầu’’. Pháp lợi dụng đầu cơ cả đôi bên
để thủ lợi.
Với sự đồng
ý trên nguyên tắc về giải pháp Bảo Đại, phía Phật Giáo Hòa Hảo-Dân Xã đã tham
gia những vận động cùng với các tổ chức quốc gia khác. Nhiều phái đoàn Phật
Giáo Hòa Hảo- Dân Xã đã lên đường sang tham dự các phiên họp tại Hong-Kong với
Cựu Hoàng Bảo Đại.
Nhưng,
như ta thấy, Pháp chỉ muốn làm ngư ông thủ lợi, chớ không có thiện chí tìm giải
pháp hợp tình hợp lý cho vấn đề Việt Nam. Trên bình diện quốc gia, Pháp đã
có thái độ đó, thì đối với Phật Giáo Hòa Hảo, ta không lấy làm lạ về thái độ
sâu độc của họ.
Với biến
cố 16-4-1947, tạo ra sự vắng mặt của Huỳnh Giáo Chủ, và tình trạng “khủng hoảng
lãnh đạo tinh thần”, sức mạnh của tổ chức Phật Giáo Hòa Hảo đã bị suy giảm rất
nhiều. Pháp chỉ cần tiêu diệt bộ máy lãnh đạo chánh trị, tê liệt hóa các thành
phần trí thức, thì đoàn thể này chỉ còn lại một khối quần chúng, nay đã mất cả
lãnh đạo tinh thần lẫn lãnh đạo chánh trị, giống như con rắn đã mất cái đầu.
Trong
tình huống đó, đương nhiên uy quyền lãnh đạo phải rơi vào tay các vị lãnh tụ
quân sự. Các vị này, xuất thân từ thành phần bình dân ít học, không đủ ý thức
chánh trị và kỹ thuật để lãnh đạo một tổ chức có tầm vóc lớn như Phật Giáo Hòa
Hảo. Đây là mục tiêu mà Pháp mong muốn, và cũng là điều mà Pháp đã thiết kế để
tạo ra, và đã đạt được vào cuối năm 1948. Các hoạt động Dân Xã bị tê liệt, các
lãnh tụ, cán bộ Dân Xã bị vô hiệu hóa, hay bị tiêu diệt, chỉ còn khối quân sự
mà Pháp mong sẽ chuyên tâm góp vào công cuộc bình định lãnh thổ, đánh đuổi các
đơn vị quân sự Việt Minh khỏi miền Tây.
11- Pháp Chia Khối Quân Sự Thành Nhiều Nhóm
Sau kế hoạch
“cắt cái đầu lãnh đạo”, bây giờ Pháp tiến vào giai đoạn kế tiếp của kế hoạch là
“xé cái mình ra nhiều mảnh”. Chánh sách ‘’chia để trị’’ vẫn là chánh sách cố hữu
của thực dân Pháp đã áp dụng tại Việt Nam ngay từ bước đầu xâm chiếm.
Chia dân tộc Việt Nam thành giai cấp giàu nghèo quá cách biệt, chia
lãnh thổ thành ba miền khác nhau, chia rẽ triều đình với dân chúng, chia xẻ xã
hội thành từng khối quyền lực... Chế độ thuộc địa và bộ máy cai trị suốt 80 năm
của Pháp tại Việt Nam đã được vững vàng một phần do chánh sách chia để
trị, gây mâu thuẫn xã hội và dân tộc.
Đối với
khối quân sự Phật Giáo Hòa Hảo đang ở tình huống cần phải có võ khí để tự vệ tự
tồn, Pháp ở vị thế chủ động, có nhiều điều kiện thuận lợi mà thi hành chánh
sách chia manh mún để dễ cai trị.
Tuy Pháp
đã ký hiệp định liên quân với ông Trần Văn Soái, mặc nhiên công nhận ông là vị
Tổng Tư lịnh Quân lực Phật Giáo Hòa Hảo-Dân Xã , nhưng Pháp đã tìm cách “xây dựng”
những cán bộ quân sự độc lập bên ngoài hệ thống chỉ huy của Bộ Tổng tư lịnh
Quân lực Phật Giáo Hòa Hảo, khích lệ và giúp đỡ cho các nhóm thành hình. Vì thế
khối quân sự Phật Giáo Hòa Hảo trên tiến trình phát triển đã chia ra làm nhiều
tổ chức:
Tổ
chức Trần Văn Soái
Tổ
chức Lâm Thành Nguyên
Tổ
chức Nguyễn Giác Ngộ
Tổ
chức Lê Quang Vinh
Về sau,
còn những nhóm nhỏ mọc lên như nhóm Võ Văn Điểu, nhóm Nguyễn Thành Đầy, nhóm
Nguyễn Văn Huê tại Long Xuyên. Một vài cấp chỉ huy khu vực quân sự cấp tỉnh của
Phật Giáo Hòa Hảo cũng được Pháp khích lệ tách khỏi hệ thống.
Trong
tình huống chia năm xẻ bảy như thế, các nhóm quân sự này đã trở thành các tập
thể nhỏ, không thể làm gì hơn, ngoài công tác quân sự tại địa phương. Họ không
thể tạo một ảnh hưởng nào về chánh trị, và cũng không được các giới bên ngoài nể
trọng. Một khi đã thiếu sự nhứt trí nội bộ, các hoạt động đối ngoại tất nhiên mất
ưu thế.
Pháp lúc
đó theo dõi rất sát các hoạt động chánh trị của các nhóm quân sự Phật Giáo Hòa
Hảo, lại còn gài một số người của họ vào các công tác ngoại giao của Phật Giáo
Hòa Hảo, để kịp thời ngăn chặn các kế hoạch chánh trị của tổ chức này.
Ngoài kế
hoạch chia xẻ, Pháp còn làm nhiều việc để cô lập hóa Phật Giáo Hòa Hảo đối với
bên ngoài, tạo một không khí chống đối Phật Giáo Hòa Hảo từ mọi phía, khởi đầu
từ các công chức hành chánh của Pháp. Đặc biệt vấn đề tài chánh, Pháp cố tình
đưa quân lực Phật Giáo Hòa Hảo vào hoàn cảnh thiếu thốn, cần tài chánh, mà số
lương bổng đài thọ chỉ bằng nhu cầu, làm cho khối quân sự này phải tự túc tài
chánh bằng các biện pháp bất hợp pháp, như thâu thuế, sung công tài sản vô chủ.
Cũng có
thể lập luận rằng: đâu phải hoàn toàn do âm mưu Pháp mà khối quân sự Phật Giáo
Hòa Hảo chia làm nhiều nhóm. Cũng còn do tham vọng các cá nhân muốn làm lãnh tụ
độc lập. Điều này cũng có phần nào đúng đối với những cá nhân thiếu cái nhìn xa
rộng, lại sẵn bản chất anh hùng cá nhân, hảo hớn giang hồ, có khuynh hướng tự
nhiên “tiểu vương lãnh chúa” giống như các thập nhị sứ quân đời trước Đinh Tiên
Hoàng. Nhưng có một điều khác cũng rõ rệt, dễ hiểu, là nếu Pháp thực sự không
muốn có tình trạng đó, thì chắc chắn họ đã ngăn chặn được.
Chính người
Pháp đã thú nhận chánh sách chia để trị của họ trong một bản nhận định sau của
quân đội Pháp:
Sau những
khó khăn của năm 1946, bộ tư lịnh Pháp đã nhận thấy tầm quan trọng của phong
trào Phật Giáo Hòa Hảo, và cả sự khó khăn của họ. Cho nên, sau khi họ liên quân
với Pháp năm 1947, chánh sách của Pháp đã phải rất thận trọng. Vừa hợp tác với
Phật Giáo Hòa Hảo, dựa vào họ để đánh lại Việt Minh, lại đồng thời phải khích lệ
sự chia rẽ bất hòa nội bộ tôn giáo này, bằng cách trợ trưởng cho những cấp thuộc
hạ của ông Trần Văn Soái thực hiện tham vọng tự lập, đứng riêng của họ. Chỉ
cung cấp võ khí đạn dược cho họ một cách hạn chế, và chỉ cho họ phát triển trên
các địa phận có khả năng củng cố an ninh những trục giao thông, và những vùng
then chốt mà quân đội chánh phủ Việt Nam tỏ ra bất lực...
Với một kế
hoạch hai mặt: tách khối quân sự Phật Giáo Hòa Hảo ra khỏi đầu não chánh trị
Dân Xã, và chia cắt nội bộ khối quân sự thành nhiều mảnh, Pháp đã làm giảm sinh
lực tiến bộ và phát triển của tổ chức Phật Giáo Hòa Hảo-Dân Xã, để biến thành
những nhóm quân sự phi chánh trị.
12- Phản Ứng
Của Phật Giáo Hòa Hảo Và Dân Xã Đảng
VAI TRÒ
LÊ QUANG VINH BẢO TỒN LẬP TRƯỜNG DÂN XÃ ĐẢNG
Tuy nhiên, không phải người Phật Giáo Hòa Hảo không nhìn thấy dã tâm của Pháp.
Cho nên đã xẩy ra những phản ứng, tuy là cục bộ, nhưng cũng làm cho Pháp phải
nhức đầu.
Lần nhức
đầu xẩy ra sớm nhứt là “cuộc đảo chánh” Ba Bần đêm 24-3-1948. Lúc đó Pháp
có kế hoạch thành lập các đơn vị đặc biệt, gọi là ‘’Đại đội Danh dự’’ với quân
số 200 người, bằng hai lần quân số đơn vị đại đội thông thường lúc đó. Các đơn
vị mới này có sĩ quan Pháp đến trong Bộ Chỉ huy, với danh nghĩa cố vấn. Do đó
Pháp có thể tin tưởng nhiều hơn, vì có thể trực tiếp kiểm soát và cung cấp các
võ khí tối tân hơn. Đại đội Danh dự 1 lúc đó đóng binh tại Ba Bần (Long Xuyên),
đang đêm quân sĩ nổi dậy hạ sát tất cả các sĩ quan Pháp và rút vào bưng biền,
Pháp nổi giận vô cùng, và cho đó là một thất bại của họ đối với Phật Giáo Hòa Hảo.
Những lần
nhức đầu khác xẩy ra với nhân vật Lê Quang Vinh tự Ba Cụt, một người mà Pháp
cho là hiếu động nhứt và cũng bất ổn nhứt, đã năm lần rút quân vào bưng biền. Mới
lãnh võ khí của Pháp là ít lâu sau lại đốt trại đốt xe, rút quân vào bưng, chận
đánh quân Pháp. Pháp nổi giận với Ba Cụt, nhưng lại vẫn tiếp nhận mỗi khi Lê
Quang Vinh rời bưng biền trở về hợp tác trở lại. Và cứ thế, mỗi lần trở lại hợp
tác, đơn vị của Lê Quang Vinh lại được tăng thêm một số võ khí mới. Pháp cho Lê
Quang Vinh cái biệt hiệu “đứa con bất trị của Phật Giáo Hòa Hảo” (l’enfant
terrible). Cứ thế, cho đến năm 1954, Lê Quang Vinh chỉ huy một đơn vị với quân
số vào khoảng 5.000 tay súng.
Pháp lại
thường phải nhức đầu nhiều lần khác, khi xảy ra những vụ ám sát sĩ quan Pháp,
chận đánh thiết giáp tuần lộ của Pháp, cướp võ khí của Pháp, xẩy ra ngay tại
các khu vực an ninh Phật Giáo Hòa Hảo. Cuộc điều tra cho biết tác giả những vụ
gây rối đó là các chiến binh Phật Giáo Hòa Hảo, nhưng Pháp không làm sao bắt được.
Pháp đã nhiều lần áp dụng các biện pháp trừng trị đối với quân lực Phật Giáo
Hòa Hảo, bằng cách cắt các nguồn tiếp liệu, nhưng cũng không thể làm mãi như vậy,
e rằng phương hại đến hiệu năng chiến đấu và công tác bình định, an ninh nói
chung.
Một điều
khác mà Pháp rất bực bội, vì nghi ngờ là có, nhưng không thể khám phá được bằng
cớ cụ thể. Pháp vẫn nghi rằng có sự đồng mưu bí mật giữa ông Trần Văn Soái và
Lê Quang Vinh trong các hành động chống phá lại Pháp, và có sự tiếp tế võ khí đạn
dược của ông Trần Văn Soái cho đơn vị Lê Quang Vinh. Điều này có thật, và do một
sĩ quan thân tín trong Bộ Tư lịnh của ông Trần Văn Soái sau này tiết lộ cho biết:
...Giữa
ông Trần Văn Soái và anh Lê Quang Vinh dường như có mối liên hệ đặc biệt nào
đó, nên anh Lê Quang Vinh gọi ông Trần Văn Soái một cách thân mật là “tía tôi”.
Khá nhiều đạn dược và võ khí đã từ kho quân nhu riêng của ông Trần Văn Soái, được
chuyên chở bí mật đến giao cho đơn vị của Lê Quang Vinh. Cứ vài tháng một lần,
anh Ba Cụt đi bằng đường sông Bassac, ghé chiếc tam bản nhỏ vào bến sông trước
tư dinh ông Soái, và được đưa lên nhà, leo thang xoáy ốc lên một căn lầu nhỏ cất
riêng làm phòng họp mật trên nóc căn nhà khách mới xây, nhìn thẳng xuống sông
Bassac.
Tại phòng
họp, anh Lê Quang Vinh trải tấm bản đồ ra để thuyết trình tình hình quân sự
trong các vùng anh đóng binh ở bưng biền, chỉ những chỗ đơn vị Cộng Sản thường
hay lui tới, và những hành lang giao liên của họ. Rồi anh đề nghị kế hoạch đánh
Pháp phía trước và đánh Việt Minh phía sau mà anh đã dự tính. Sau hết là đề cập
đến những nhu cầu, phần chính là đạn dược, võ khí chỉ ít thôi, vì súng có sổ
sách, có số, Pháp kiểm soát dễ dàng hơn đạn dược. Và tiền bạc. Ông Trần Văn
Soái ngồi vuốt bộ râu mép nghe anh Ba Cụt trình bày, với vẻ hài lòng, và thường
hay cười nửa đùa nửa thật mà nói rằng: “Ba à, lần nào mày cũng đòi nhiều thứ
quá, sao tao có đủ cho mày được”.
Và anh Lê
Quang Vinh trả lời: “Thôi mà tía. Cái thế ỷ giốc này mới chọi lại bọn Việt Minh
và bọn Pháp, tía tiếc làm gì”.
Rồi đến
phần ăn cháo gà hay cháo cá giữa đêm, trước khi chia tay. Anh Ba Cụt thường
khoác trên thân người gầy cao một chiếc áo pardessus cũ, vừa để đi đêm cho ấm,
vừa để ngụy trang...
Thuật
theo lời trung tá T. (dấu tên)
Trên đây
là lời tường thuật của một sĩ quan thân tín, đặc trách công tác bí mật này (yêu
cầu dấu tên) đã thực hiện nhiều năm mà Pháp không thể khám phá được. Sự bí mật
được giữ kỹ vì chỉ có bốn người được biết: Ông Trần Văn Soái, Lê Quang Vinh, và
hai sĩ quan tin cậy. Công tác tiếp tế bí mật này quả đã giúp cho đơn vị của Lê
Quang Vinh chịu đựng ở bưng biền, để một bên đối phó với các bộ đội Việt Minh,
một bên đối phó quân đội Pháp. Cũng nhờ chiến thuật “ỷ giốc” này (Lê Quang Vinh
hay dùng danh từ ‘’ỷ giốc’’ này), mà Việt Minh bị ngăn chặn không thể len vào
được các khu vực Hòa Hảo. Hơn thế, các đường giao liên của họ từ Tiền Giang về
Hậu Giang bị bế tắc, làm cho sự phối hợp giữa hai chiến khu U Minh và Đồng Tháp
rất khó khăn và ít hiệu quả. Khu rừng tràm vùng hậu bối Long Xuyên giáp giới Hà
Tiên và Rạch Giá, trước kia là chiến khu an toàn của Việt Minh, nay cũng bị đơn
vị của Lê Quang Vinh chiếm đóng hay đánh phá, làm cho các đơn vị Việt Minh
không còn sử dụng làm hậu cứ trú quân an toàn được nữa.
Đó là dụng
ý quân sự. còn dụng ý chánh trị trong công tác tiếp liệu cho đơn vị Lê Quang
Vinh, đó là ông Trần Văn Soái vẫn còn muốn nuôi dưỡng một lá bài để đối phó với
Pháp, vì ông cảm thấy khuynh hướng áp lực của Pháp đối với ông, tìm mọi cách bắt
chẹt ông, làm cho ông rất tức tối. Có người thân cận ông hay nhắc lại một câu
mà ông thường nói trong cơn giận: “Mấy thằng Tây chó đẻ chơi kiểu cha có ngày
cũng phải chết.” Ngoài mặt tuy ông tỏ vẻ “dễ bảo” nhưng bên trong, đòn đối phó
của ông được bảo mật tối đa, nên Pháp không thể khám phá được.
Hơn nữa,
về mặt chánh trị, ông nghĩ rằng, dù có phải hợp tác với Pháp, cũng không được
quên đường lối chống thực dân đòi độc lập mà Huỳnh Giáo Chủ đã vạch ra cho đoàn
thể và tín đồ. Ông rất sợ Đức Thầy, cho nên khi nghe người em út Lê Quang Vinh
nhắc đến đường lối chống thực dân của Đức Thầy, ông không thể cãi lại. Với hành
động tiếp liệu cho đơn vị kháng chiến của Lê Quang Vinh, ông có thể an tâm phần
nào trong việc bảo tồn đường lối của Đức Thầy, để quân bình đường lối hợp tác với
Pháp mà ông đang theo đuổi trên mặt chánh thức công khai.
Cũng
trong chiều hướng tâm lý và suy luận đó, ông Trần Văn Soái đã đồng ý với Lê
Quang Vinh khi ông này đề nghị phục hoạt đảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội. Ông Soái
có khuyên Lê Quang Vinh nên giới hạn các hoạt động Dân Xã trong bưng biền, còn
bên ngoài, là các hoạt động Phật Giáo Hòa Hảo.
Vào cuối
năm 1950, ông Lê Quang Vinh đổi tên tổ chức quân sự Nghĩa quân Cách mạng thành
“Quân Đội Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng”, sau khi tái lập Ban Chấp hành Trung
ương Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng. Từ đó, chức vụ của ông là ủy viên Quân sự
Dân Xã kiêm Tư lịnh quân đội Dân Xã. ở vị thế này, các hoạt động của ông có mục
tiêu chánh trị, mà quân sự được xem như phương tiện phục vụ cho chánh trị đạt
các mục tiêu của Dân Xã Đảng. Một số cán bộ cao cấp của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội
Đảng đã phải tạm ngưng công tác năm 1948, bây giờ được mời ra đảm nhận bộ phận
Dân Xã Đảng. Nhân vật đảm nhận chức vụ Tổng bí thơ Dân Xã Đảng lúc đó là ông
Trình Quốc Khánh, và ủy viên Chánh trị là ông Phạm Sĩ Thanh, hai vị này đóng
vai trò gây dựng lại bộ máy đảng Dân Xã đã bị Pháp làm tê liệt từ năm 1948.
Như thế,
Lê Quang Vinh là người đã đi ngược lại kế hoạch của Pháp “tách lực lượng quân sự
Phật Giáo Hòa Hảo khỏi cái đầu chánh trị Dân Xã”. Đó là đặc điểm của con người
Lê Quang Vinh, 100% nông dân, cũng là điển hình cho quần chúng Phật Giáo Hòa Hảo.
So với ba
vị lãnh tụ quân sự kia (Trần Văn Soái, Nguyễn Giác Ngộ, Lâm Thành Nguyên), Lê
Quang Vinh là người trẻ tuổi nhứt, cho nên hiếu động và xông xáo hơn. Về mặt chỉ
huy chiến trường, các vị lãnh tụ lớn tuổi ít khi đích thân cầm đầu binh sĩ chiến
đấu tại mặt trận, nhưng Lê Quang Vinh thì lúc nào cũng tự mình đích thân chỉ
huy chiến đấu và tiến tới trước để binh sĩ theo sau. Cho nên ông nổi tiếng là
người gan dạ không biết sợ chết. Về mặt chính trị, Lê quang Vinh có ý thức là:
quân sự phải được đặt dưới sự chỉ đạo của chánh trị, cho nên yểm trợ sự phục hồi
hoạt động đảng Dân Xã, và tự đặt mình dưới sự chỉ đạo chánh trị của Dân Xã.
THÁI ĐỘ BẤT
HỢP TÁC VỚI PHÁP CỦA ÔNG NGUYỄN GIÁC NGỘ
Một lãnh
tụ quân sự Phật Giáo Hòa Hảo khác là ông Nguyễn Giác Ngộ cũng cố giữ đường lối
bất hợp tác với Pháp.
Ngay từ
sau khi Huỳnh Giáo Chủ bị Việt Minh ám hại, ông Nguyễn Giác Ngộ đã chọn lựa
thái độ: ông trao võ khí của bộ đội Nguyễn Trung Trực mà ông là chỉ huy trưởng,
cho các ông Trần Văn Soái, Lâm Thành Nguyên ra hợp tác với Pháp để cứu đồng đạo,
chớ không đích thân “bắt tay người Pháp”.
Bộ đội
Nguyễn Trung Trực có lịch sử như sau:
Cuối năm
1945, khi thực dân tái chiếm Saigon và các tỉnh miền Nam, Huỳnh Giáo Chủ thống
hợp các lực lượng tự động võ trang đã có sẵn thành một lực lượng Dân quân Cách
mạng kháng Pháp lấy tên là Nghĩa Quân Cách Mạng Vệ Quốc Liên Đội Nguyễn Trung
Trực.
Liên Đội
ra đời gồm có bốn đơn vị:
— Chi đội
1 do Trần văn Soái chỉ huy, hoạt động vùng Cần Thơ.
— Chi đội
2 do Lê Minh Điểu (tức xã Nhiễu) chỉ huy, hoạt động vùng Long Xuyên.
— Chi đội
3 do Lê Phát Khuynh chỉ huy, hoạt động vùng Châu Đốc.
— Phân đội
4 do Phan Hà chỉ huy, hoạt động vùng Rạch Giá.
Để kịp thời
đối phó với tình hình nghiêm trọng của đất nước trước nạn Pháp xâm lăng, Huỳnh
Giáo Chủ sắp xếp lại hàng ngũ cho được chỉ huy thống nhứt. Ngày 18-12-1946 tại
chiến khu Bình Hòa (Tân An) các cấp chỉ huy Nghĩa Quân Cách Mạng Vệ Quốc Liên Đội
Nguyễn Trung Trực, trong một Đại hội Quân sự, đã cải tổ bốn đơn vị thành một
Chi đội mạnh mẽ hơn mang danh là Chi đội Nguyễn Trung Trực Hậu Giang, với Ban
chỉ huy như sau:
Chi
đội trưởng: Nguyễn Giác Ngộ
Chi
đội phó kiêm trưởng ban cơ khí: Lâm Thành Nguyên
Tham
mưu trưởng kiêm ủy viên Chánh trị: Trần Đức Thu (tức luật sư Lê Văn Thu).
Tham
mưu phó: Trương Kế Tự (tức giáo sư Trần Kiệt)
Chi đội
Nguyễn trung Trực Hậu Giang gồm có 3 đại đội và 1 phân đội biệt lập.
Đại
đội 1 do Trần Tín Nghĩa làm Đại đội trưởng, phụ trách vùng Cần Thơ, Vĩnh Long,
Sóc Trăng và Bặc Liêu.
Đại
đội 2 do Ngô Trung Hưng (tức Lâm Thế Xương) làm Đại đội trưởng, phụ trách vùng
Long Xuyên, Sa Đec và Đồng Tháp Mười.
Đại
đội 3 do Lê Hoài Nam làm Đại đội trưởng, phụ trách vùng Châu Đốc, khu
vực Thất Sơn và ranh giới Cao Miên.
Phân
đội 4 biệt lập do Phan Hà làm Phân đội trưởng, phụ trách vùng Rạch Giá và Hà
Tiên.
Lúc
bấy giờ Lê Quang Vinh được đức Thầy đề cử làm Phân đội trưởng phân đội 2 thuộc
Đại đội 2/NTT Hậu Giang.
Sau khi
chi đội Nguyễn Trung Trực Hậu Giang được cải tổ, Chi đội 1 của Trần văn Soái
trong Liên đội, được cải thành chi đội Lưu Động 2, còn Chi đội Nguyễn Trung Trực
được gọi là Chi đội số 1.
Khi Huỳnh
Giáo Chủ chấp nhận tham chánh với chức vụ ủy viên Đặc biệt trong ủy ban Hành
chánh Nam Bộ, để biểu dương tinh thần đoàn kết quốc gia chống xâm lăng, Chi đội
Nguyễn Trung Trực được chánh thức hóa thành Chi đội 30 Vệ Quốc Đoàn Việt Nam.
Ban chỉ
huy Chi đội 30 được Huỳnh Giáo Chủ giữ nguyên chức vụ và vùng hoạt động của các
Đại Đội lệ thuộc cũng không thay đổi.
Sau khi
chánh thức hóa, Chi đội dưới sự chỉ huy của ông Nguyễn Giác Ngộ từ Côn Đảo mới
về và được Huỳnh Giáo Chủ đề cử chấp chưởng binh quyền, tích cực tranh đấu và lập
nhiều chiến công trong cuộc hạ đồn Pháp và đoạt vũ khí của giặc.
Để làm hậu
thuẫn cho Chi đội, về mặt vũ khí, một công binh xưởng được thiết lập tại Hiệp
Xương, đúc khí giới và đạn dược, và về mặt tăng bổ hàng ngũ chiến binh, nhiều lớp
huấn luyện các cấp sĩ quan và hạ sĩ quan được khai giảng.
Khóa huấn
luyện đầu tiên đã được mở vào cuối năm 1946 tại núi Dài vùng Thất Sơn, đào tạo
cấp tốc 10.500 quân, do một Ban huấn luyện với sự hợp tác của bốn sĩ quan Nhựt
Bổn cấp tá.
Công cuộc
đang tiến triển đẹp đẽ và kế hoạch thành lập Liên Khu Quốc Gia đang bước sang
giai đoạn thực hiện thì một tai biến xảy ra làm tan vỡ chương trình kế hoạch đã
định. Đó là biến cố: Huỳnh Giáo Chủ thọ nạn tại Đốc Vàng Hạ. Một tai nạn lớn
lao chẳng những đối với khối Phật Giáo Hòa Hảo mà còn là một sự thiệt thòi to
tát đối với hàng ngũ quốc gia.
Trước sự
phản bội của Cộng Sản, chi đội 30 rút ra khỏi hàng ngũ Vệ Quốc Đoàn Việt Nam và
theo quyết định của Hội nghị tối cao Quân Chính họp tại Hòa Hảo liền sau khi Huỳnh
Giáo Chủ thọ nạn, chi đội 30 trao khí giới cho đoàn thể để võ trang Bộ Đội Dân
Xã và Bộ Đội Phật Giáo Hòa Hảo hầu bảo vệ đoàn thể.
Cuối năm
1947, để đáp ứng với nhu cầu chiến đấu trong tình thế mới, một phiên họp khoáng
đại Quân Chính được triệu tập tại Hiệp Xương. Chi đội 30 được cải tổ thành Bộ Đội
Nguyễn Trung Trực với thành phần Ban chỉ huy tối cao như sau:
Chỉ
huy trưởng: Nguyễn Giác Ngộ
Chỉ
huy phó: Lê Phát Khuynh
Chủ
nhiệm chánh trị bộ kiêm Tham mưu trưởng: Trần Kiều
Bộ đội
Nguyễn Trung Trực có trên hai ngàn binh sĩ tại ngũ.
Ngoài ra
còn tổ chức Bảo An Quân (lực lượng bán quân sự) khắp các tỉnh Long Xuyên, Châu
Đốc, Sa Đéc, Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Bến
Tre... để giữ an ninh trật tự trong thôn ấp và đồng thời làm kho cung cấp binh
sĩ cũng như tiếp tế lương thực cho Bộ đội .
Để đào tạo
chiến sĩ, nhiều khóa huấn luyện liên tục được mở ra.
Không kể
khóa huấn luyện tại núi Dài cuối năm 1946, sau đây là các khóa huấn luyện sau
ngày cải tổ:
Các
khóa huấn luyện mở vào cuối năm 1947 tại Hiệp Xương, đào tạo cấp Đại đội trưởng.
Các
khóa huấn luyện cán bộ Chính trị viên mở tại chiến khu Ba Dầu (Long Xuyên) năm
1948.
Các
khóa huấn luyện mở vào đầu năm 1949 tại Mỹ Hội Đông đào tạo cấp Tiểu đội trưởng
và Trung đội trưởng.
Các
khóa huấn luyện mở vào cuối năm 1949 tại Kiến An đào tạo cấp Trung đội trưởng
và Đại đội trưởng.
Song song
với chương trình huấn luyện binh sĩ, Bộ đội còn phái cán bộ lưu động đến các tỉnh,
quận huấn luyện quân sự căn bản cho các cán bộ và đội viên Bảo An Quân.
Năm 1949
thực dân Pháp tìm đủ cách khủng bố, bức ép bộ đội phải ra hợp tác với quân đội
Viễn Chinh Pháp, nhưng vì trung thành với lập trường quốc gia kháng chiến nên Bộ
đội Nguyễn Trung Trực bị tấn công tới tấp bằng hải lục không quân, dồn ép phải
rút về kinh Cựu Hội (Cái Tàu Thượng) địa giới giữa vùng Quốc Gia và Cộng Sản.
Mặc dầu bị
đặt vào thế kẹt giữa hai gọng kềm Thực Dân và Cộng Sản, Bộ đội Nguyễn Trung Trực
vẫn cương quyết giữ vững lập trường kháng chiến thà chịu cảnh cùng khốn thiếu đạn
dược, thiếu vũ khí nhưng được nhân dân tiếp tế dồi dào, chớ không chịu chấp nhận
điều kiện ra hợp tác với Thực Dân.
Trong thời
gian này, đã có nhiều cuộc tiếp xúc giữa ông Nguyễn Giác Ngộ và các lãnh tụ
cách mạng quốc gia tại Saigon, như các ông Phan Khắc Sửu, Trần Văn Văn... mục
đích để duy trì thế quân sự của Bộ đội Nguyễn Trung Trực như một tổ chức nghĩa
binh cách mạng vừa chống Pháp vừa chống Cộng, để bảo tồn chính nghĩa quốc gia, làm
nền tảng cho giải pháp quốc gia dưới sự lãnh đạo của Cựu Hoàng Bảo Đại lúc này
đang thương thuyết với Pháp.
Đọc trong
cuốn hồi ký của Cựu Hoàng Bảo Đại “Le Dragon d’Annam” ta thấy ông Bảo Đại đã phải
tranh đấu gay go vô cùng để đối phó với dã tâm của người Pháp thế nào, thì trên
bình diện địa phương, đơn vị của ông Nguyễn Giác Ngộ cũng phải chịu đựng khốn
khó vô cùng trước áp lực đánh phá của quân đội Pháp ở miền Tây. Lúc đó Pháp chỉ
muốn cho Việt Nam độc lập trên mảnh giấy hiệp ước, chớ trên thực tế họ ngoan cố
không chịu trao trả quyền hành, làm cho từ vị Quốc Trưởng xuống đến chánh phủ,
và cả giới lãnh tụ cách mạng quốc gia trở thành “tay sai bù nhìn” trước công luận
quốc tế và quần chúng Việt Nam. Trạng huống này chỉ có lợi cho Việt Minh, và
tuyên truyền của ông Hồ Chí Minh đã khai thác triệt để, hầu bôi nhọ chánh nghĩa
quốc gia. Trong khi đó, Pháp cố tìm mọi cách dồn ép ông Nguyễn Giác Ngộ phải ra
hợp tác với họ.
Nhưng ông
Nguyễn Giác Ngộ và bộ tham mưu đã cương quyết, dù chết không nhượng bộ. Có một
câu chuyện được kể lại về tình trạng này:
“Trước áp
lực nặng nề và nguy hiểm của Pháp, ông Nguyễn Giác Ngộ có ý muốn bắt chước theo
gương xưa của lãnh tụ Nguyễn Trung Trực, hy sinh thân mình để cứu lấy đồng đội
khỏi nạn tiêu diệt, nhưng các sĩ quan trong bộ tham mưu của ông đã quỳ trước mặt
ông mà khóc với lời yêu cầu khẩn thiết xin ông dù có chết cũng giữ lấy lập trường
chống thực dân Pháp, đừng bao giờ ra hợp tác với chúng’’.
Cho nên bộ
đội Nguyễn Trung Trực kiên quyết bất hợp tác với Pháp, và sau cùng chỉ còn xuất
lộ duy nhất—dù miễn cưỡng—là hợp tác với Quốc Trưởng Bảo Đại.
Nói miễn
cưỡng là vì lúc đó dã tâm của Pháp được biểu lộ rõ rệt, Quốc Trưởng Bảo Đại chỉ
là chức vị hữu danh vô quyền, thành ra tuy là hợp tác với Quốc Trưởng Bảo Đại,
nhưng sự thật vẫn là gián tiếp bị Pháp chi phối. Chỉ bảo tồn được phần danh
nghĩa mà thôi.
Tuy
nhiên, thái độ của các lãnh tụ quân sự trong đơn vị Nguyễn Trung Trực đã chứng
tỏ tinh thần chống Pháp của người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, trong truyền thống
của Đạo và đường lối ái quốc của Huỳnh Giáo Chủ.
Có lẽ cái
truyền thống hào hùng của Nguyễn Trung Trực cũng tạo ảnh hưởng trong tâm hồn của
những người chiến sĩ nghĩa binh Phật Giáo Hòa Hảo khi tham gia chiến đấu dưới
ngọn cờ cách mạng kháng Pháp của một bộ đội được mang danh nghĩa và oai linh của
anh hùng Thượng đẳng Đại thần Nguyễn Trung Trực.
Sau này
đơn vị quân sự Nguyễn Trung Trực trở thành một trong những đơn vị đầu tiên của
quân đội quốc gia Việt Nam, trung đoàn 55 và 63, nhưng cũng không được chế độ
Ngô Đình Diệm đối xử đàng hoàng, bị đưa ra tuốt ngoài miền Trung, binh sĩ đâm
ra chán nản, xin giải ngũ trở về quê quán cày ruộng tu hiền. (Trung đoàn 63 bị
giải tán ngày 19-6-1956, cùng một lúc với nhiều đơn vị gốc Phật Giáo Hòa Hảo và
Cao Đài).
CHƯƠNG
12: TỔNG KẾT GIAI ĐOẠN QUÂN SỰ HOÁ
Tổ chức
quân sự Phật Giáo Hòa Hảo đã phát triển theo tiến trình sau đây, nếu kể từ thời
kỳ sơ khởi hình thành phong trào Bảo An:
Khởi
đầu là những đội Bảo An võ trang bằng võ khí bén (giai đoạn 1942-1945).
Bước
thứ hai, một số đơn vị được võ trang bằng súng cá nhân xuất hiện, tham gia cuộc
kháng chiến chống quân đội Pháp (giai đoạn 1945-1946).
Bước
thứ ba, tổ chức thành các đơn vị lớn hơn, cấp chi đội 500 người, ngang hàng cấp
tiểu đoàn (giai đoạn 1946-1947).
Bước
thứ tư, liên quân với Pháp, tăng gia quân số và võ trang (giai đoạn 1947-1955).
Theo các tài liệu, tổng số binh sĩ Phật Giáo Hòa Hảo khoảng trên 3.000 người
năm 1947 khi liên quân với Pháp, đã tăng lên tới mức 30.000 người vào đầu 1955.
Những
nhân vật quân sự là:
Trần
Văn Soái, cấp bậc Trung tướng (1955)
Nguyễn
Giác Ngộ, cấp bậc Thiếu tướng (1955)
Lâm
Thành Nguyên, cấp bậc Thiếu tướng (1955)
Lê
Quang Vinh, cấp bậc Thiếu tướng (1955)
Tất cả bốn
lãnh tụ quân sự này đều xuất thân từ chốn bình dân ít học trong xã hội, có ưu
điểm là được quần chúng bình dân trong tôn giáo Phật Giáo Hòa Hảo tín nhiệm; và
có nhược điểm là kiến thức giới hạn về chánh trị, không vượt ra khỏi phạm vi địa
phương và quân sự, không thích nghi được với các hoạt động chánh trị trên bình
diện quốc gia.
Cho nên bảng
tổng kết giai đoạn quân sự 1947-1955 của Phật Giáo Hòa Hảo chỉ chứng minh được
kết quả về quân sự: bình định lãnh thổ, đánh đuổi các đơn vị Việt Minh khỏi miền
Tây, bảo vệ phần đất này không để cho uy quyền Cộng Sản chi phối.
Ngược lại,
về mặt chính trị, họ đã không đạt được những thành công tương xứng với vị thế một
tổ chức có tầm vóc với hai triệu đoàn viên, lại có thế lực quân sự.
Một số
các nhà phân tích đã nghĩ rằng: Nếu như đoàn thể Phật Giáo Hòa Hảo đã thực sự
thực hiện được nguyên tắc căn bản là “quân sự lãnh đạo bởi chánh trị”, tức là
đã tránh được tình huống nghịch lý ‘’quân sự lãnh đạo chánh trị’’ như đã xảy
ra, thì sau khi các lực lượng võ trang Phật Giáo Hòa Hảo có giải tán hay sáp nhập
quân đội quốc gia, lực lượng chánh trị vẫn không bị sụp đổ như đã xảy ra năm
1955.
Sau khi
thế lực quân sự và chánh trị không còn hoạt động được nữa (1955), Phật Giáo Hòa
Hảo chỉ còn tiềm lực tôn giáo. Nhờ tiềm năng tôn giáo mà Phật Giáo Hòa Hảo,
cũng như Cao Đài, vẫn tồn tại được. Khác với tổ chức Bình Xuyên, khi thế lực
quân sự tan rã, thì Bình Xuyên không còn khả năng tồn tại nữa.
CHƯƠNG
13: VẤN ĐỀ SÁT NHẬP QUÂN LỰC PGHH VÀO QUÂN ĐỘI QUỐC GIA VIỆT NAM
1 - Giai Đoạn Chuyển Tiếp Từ Pháp Qua Việt Nam
Theo các
tài liệu văn khố, việc sáp nhập các tổ chức quân sự giáo phái miền Nam vào quân
đội quốc gia Việt Nam đã khởi đầu từ năm 1950, ngay sau khi Thủ tướng Trần Văn
Hữu tuyên bố thành lập quân đội quốc gia Việt Nam, tháng 8-1950.
Thống tướng De Lattre de Tassigny chấp chưởng quyền hành quân sự và dân sự tại
Đông Dương với chức vụ Cao Ủy kiêm Tổng tư lịnh quân đội viễn chinh Pháp tại
Đông Dương, đã đề ra lần đầu tiên chánh sách “Việt Nam hóa” chiến tranh tại Việt
Nam, mà bước thứ nhứt là tăng gia quân số Việt Nam. Trong khuôn khổ kế hoạch
đó, ông chỉ thị Bộ Tư lịnh Pháp ở miền Nam, lúc đó do Thiếu tướng Chanson chỉ
huy phải xúc tiến việc sáp nhập các lực lượng quân sự giáo phái vào Lực lượng Bổ
túc của quân đội quốc gia Việt Nam.
Ngày 19-7-1951, trong một văn thơ gởi phái bộ quân sự Pháp bên cạnh chánh phủ
Việt Nam, Tướng Chanson cho biết từ 1-1-1952 đợt đầu tiên binh sĩ Hòa Hảo sẽ
sáp nhập chương trình đó. Ông cũng xác nhận rằng tất cả các vị lãnh tụ quân sự
Hòa Hảo, Tướng Trần Văn Soái, Đại tá Lâm Thành Nguyên, Thiếu tá Lê Quang Vinh đều
đồng ý việc sáp nhập này.
Tình hình nghiêm trọng tại các chiến trường lúc đó, sự bất ổn chánh trị, tiếp
theo là cái chết của Tướng De Lattre đã làm ngưng trệ sự thi hành chủ trương
sáp nhập này. Cho nên đầu năm 1953, chánh phủ Việt Nam và Bộ Tổng Tư lịnh Pháp,
khi thương thuyết chuyển giao quyền hành lãnh thổ từ Pháp qua Việt, đã đặt vấn
đề này trở lại.
Trong một bản phân tích do văn phòng phái bộ liên lạc của quân đội Pháp bên cạnh
quân lực Hòa Hảo, đã trình bày một số dữ kiện cần bàn của vấn đề, để đóng góp
các yếu tố có tính chất lịch sử cho các cuộc thương thuyết Pháp-Việt thảo luận
vấn đề này.
BẢN PHÂN TÍCH
Đề tài: Trích dẫn các văn thư Mật và Tối mật của Thủ tướng chánh phủ lâm thời
(ông Lê Văn Hoạch) và Tổng trưởng Quốc phòng (ông Nguyễn Văn Tâm) gởi cho Đại
tá Cluzet Tư lịnh miền Tây trước khi ký hiệp định liên quân Pháp Hòa Hảo
18-5-1947. Một hội nghị gồm đại diện hữu quyền của Bộ Tổng Tư lịnh Pháp và
chánh phủ Việt Nam, rất gần đây sẽ lấy các quyết định liên hệ đến việc chuyển
giao quyền hành sang chánh phủ Việt Nam tại các tỉnh miền Tây, và về chính sách
đối với các lực lượng võ trang Phật Giáo Hòa Hảo.
Giáo phái Phật Giáo Hòa Hảo đã chánh thức chiến đấu liên quân với quân đội Pháp
từ tháng 5-1947, và đã giúp đỡ công tác bình định bảo vệ an ninh lãnh thổ. Họ
lo ngại rằng trong sự chuyển giao quyền hành này, những hy sinh của họ không được
công nhận, và đặc biệt các quyền lợi vật chất phát sinh từ bộ máy hành chánh
song hành của họ sẽ bỗng nhiên và hoàn toàn bị phế bỏ.
Những lãnh tụ các nhóm quân sự Phật Giáo Hòa Hảo rất lấy làm thất vọng vì họ
không có một đại diện nào trong các hội nghị chuẩn bị chuyển quyền đó. Các hội
nghị này đã quyết định số phận của các tỉnh mà đa số dân chúng là tín đồ Phật
Giáo Hòa Hảo, và đang do Phật Giáo Hòa Hảo đảm nhận phần lớn nhiệm vụ bảo vệ an
ninh quân sự.
Giới Phật Giáo Hòa Hảo cho rằng “Vấn đề Phật Giáo Hòa Hảo” đã không được đánh
giá đúng mức bởi chánh phủ Việt Nam, cho nên họ tin vào các sĩ quan quân đội
Pháp mà họ đã cùng chiến đấu từ 1947, họ cho rằng bản hiệp định liên quân họ ký
ngày 18-5-1947 vẫn còn giá trị, phía chánh phủ Việt Nam cũng không hề sửa đổi
hoặc chối bỏ bao giờ.
Một số giới chức chánh quyền Việt Nam có thể, trong lúc hội nghị về chuyển quyền,
đã viện lý lẽ để không tôn trọng bản hiệp định đó, hoặc tỏ thái độ ngạc nhiên về
sự ký kết bởi nhà cầm quyền Pháp. Cho nên cần phải xuất trình các tài liệu
chính thức phát sanh từ chánh quyền Việt Nam lúc đó đã khẩn thiết yêu cầu giới
chức quân sự Pháp hãy võ trang và yểm trợ tối đa cho phong trào Phật giáo Hòa Hảo.
Đây là những tài liệu Mật, phổ biến rất hạn chế, mang chữ ký đương kim Thủ tướng
Nguyễn Văn Tâm và Phó Thủ tướng Lê Văn Hoạch, lúc đó (1947) là Tổng trưởng Quốc
phòng và Thủ tướng của chánh phủ lâm thời Nam
2 - Phần
Trích Dẫn Các Tài Liệu Mật Và Tối Mật
Tài liệu
1:
Văn thơ của Tổng trưởng Quốc phòng gởi Đại tá Tư lịnh miền Tây MDN/CEP/No 68
ngày 2-5-1947, cho biết rằng có nhận được thông điệp của Thủ tướng chánh phủ
lâm thời, yêu cầu ông can thiệp với Đại tá tư lịnh miền Tây để “quân đội yểm trợ
mạnh mẽ cho phong trào Hòa Hảo”.
Tài liệu 2:
Văn thơ của Tổng trưởng Quốc phòng gởi Thủ tướng chánh phủ MDN/CEP/No/78 ngày
6-5-1947, nhắc lại những điện tín và phúc trình trước đó về vấn đề Hòa Hảo, nay
tái trình vấn đề này, một vấn đề nóng bỏng thời sự, sẽ có những ảnh hưởng trầm
trọng về chính trị, tùy theo thái độ của chánh phủ trước cuộc chiến đấu của
giáo phái Hòa Hảo chống lại Việt Minh... Có hai thái độ lưỡng nan: Một là võ
trang cho Hòa Hảo, hai là bỏ mặc họ.
Tổng trưởng quốc phòng đề nghị với Thủ tướng: “tốt hơn là giúp cho Hòa Hảo các
phương tiện để tự bảo vệ, và phải gấp rút có thái độ rõ ràng, dù là thái độ
nào, cũng phải hành động khéo léo để tránh phản ứng nghi ngại. Yêu cầu Thủ tướng
can thiệp hữu hiệu với giới chức quân sự Pháp về vấn đề này...
Tài liệu 3:
Văn thơ Tối mật và Tối khẩn của Thủ tướng chánh phủ gởi Ủy viên Cộng Hòa Pháp số
344/s. Cab ngày 9-5-1947 xác định rằng trong lúc đến Cần Thơ để nghiên cứu khả
năng ứng dụng của Hòa Hảo và nhu cầu yểm trợ tổ chức đó. Thủ tướng nhận thấy cần
thiết phải ủng hộ một cách gấp rút phong trào chống Việt Minh này, bằng cách võ
trang các nhóm Hòa Hảo, cứu viện các cộng đồng Hòa Hảo khi bị tấn công hay hăm
dọa, và tổ chức những cuộc hành quân hỗn hợp với Hòa Hảo... Văn thơ này ký tên
bởi Thủ tướng Lê Văn Hoạch yêu cầu Thiếu tướng Tư lịnh Quân đội Pháp tại Nam Việt
mở những cuộc hành quân tấn công quy mô...
Trên bình diện pháp lý, có thể tóm lược các tài liệu trên như sau:
1. Sự yểm trợ võ trang các đơn vị Phật Giáo Hòa Hảo đã được thực hiện theo
chánh sách chung giữa chánh phủ Cộng Hòa Nam kỳ và nhà cầm quyền Pháp lúc đó.
2. Bản hiệp định 18-5-1947 ký kết giữa quân lực Phật Giáo Hòa Hảo và Pháp thể
hiện chánh sách chung giữa Việt Nam và Pháp, dù rằng không có chữ ký của đại diện
chánh phủ Lê Văn Hoạch trên bản hiệp định.
3. Trong tiến trình sáp nhập quân lực Phật Giáo Hòa Hảo vào quân đội quốc gia
Việt Nam, phía chánh quyền Việt Nam đã có khuynh hướng không đếm xỉa đến bản hiệp
định 18-5-47, đồng thời cũng không mời đại diện Phật Giáo Hòa Hảo tham gia những
cuộc hội nghị thảo luận các vấn đề liên quan tới Phật Giáo Hòa Hảo. Thái độ này
thiếu tánh chất thực tiễn và thiếu khôn khéo, nên đã tạo nhiều trở ngại cho việc
thống nhứt quân đội.
Không khí nghi kÿ giữa chánh phủ Việt Nam và quân lực Phật Giáo Hòa Hảo lúc đó,
đáng lẽ phải được đánh tan bởi thái độ cởi mở hiểu biết và thích nghi, biểu lộ
trước hết bởi phía chánh phủ, lại bị làm cho thêm trầm trọng bởi thái độ miệt
thị và chống đối Phật Giáo Hòa Hảo. Tâm lý và phản ứng của phía Phật Giáo Hòa Hảo
là: quân lực Phật Giáo Hòa Hảo đã ra đời và chiến đấu nhiều năm trước khi quân
đội quốc gia ra đời, tự cho mình có công đánh đuổi các bộ đội Cộng Sản, và bảo
vệ được một phần lãnh thổ quốc gia thoát khỏi ảnh hưởng Việt Minh. Họ có quyền
được hưởng sự đãi ngộ hợp tình hợp lý của chánh phủ, và họ không chấp nhận những
người trước kia hoặc đã chạy theo Việt Minh hay hợp tác với Pháp, nay là sĩ
quan trong quân đội quốc gia, lại có thái độ miệt thị trịch thượng đối với họ.
Phía các cấp chỉ huy trong quân đội quốc gia có tâm lý chung khinh rẻ binh sĩ
Phật Giáo Hòa Hảo thất học quê mùa, nhìn họ qua nhiều lớp thành kiến tích tụ từ
nhiều năm qua, cho nên nói chung là thiếu thiện cảm. Nhứt là những sĩ quan từ
miền Bắc di cư vào Nam năm 1954, nhiều người đã mang sẵn những ngộ nhận tạo ra
bởi tuyên truyền Cộng Sản, đến nỗi hầu hết tin rằng: ‘’Hòa Hảo ăn thịt ăn gan
người’’ và ‘’nói láo như Hòa Hảo’’. Hãy bình tâm mà tưởng tượng phản ứng của một
chiến sĩ hay tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo khi nghe một người nào đó nói những câu
trên đây. Người trầm lặng nhẫn nại cũng cảm thấy đau xót vì bị vu oan và bị chạm
tự ái. Người trực tánh, ít suy nghĩ tất nhiên có phản ứng đối nghịch hay mạnh mẽ.
Vô tình hay cố ý, nhắc lại những luận điệu tuyên truyền bôi lọ này, là đã rơi
vào cái bẫy của Cộng Sản, dùng lợi khí Cộng Sản mà phỉ báng lại những người
cùng chiến tuyến với mình. Bộ máy tuyên truyền Cộng Sản đã thành công trong mục
tiêu chia rẽ hàng ngũ quốc gia, khiến người Việt Nam ở miền Bắc không hề có đụng
chạm quyền lợi hay hoạt động chung với Phật Giáo Hòa Hảo, cũng có các thành kiến
sai lầm bi đát đem từ miền Bắc vào Nam, để rồi bị chi phối bởi chính các thành
kiến đó, mà nhìn các tôn giáo miền Nam, nhứt là Phật Giáo Hòa Hảo, với nhãn
quan lầm lạc. Điều này ảnh hưởng khá nhiều đến mối tương quan giữa quân lực Phật
Giáo Hòa Hảo và chánh quyền quốc gia, bởi vì số sĩ quan và viên chức cao cấp của
guồng máy quân đội và chánh phủ lúc đó có một tỷ lệ khá cao những thành phần di
cư từ Bắc vào Nam.
Tình trạng tâm lý tế nhị và phức tạp đó chỉ có thể được giải tỏa bằng một thái
độ và chánh sách cởi mở và trực tiếp của chánh phủ, lập lại lòng tin tưởng của
binh sĩ Phật Giáo Hòa Hảo để họ không còn cảm thấy bị khinh miệt kỳ thị, hay lo
ngại bị lừa phỉnh. Nhưng chánh phủ Việt Nam lúc đó lại áp dụng phương thức giải
quyết vấn đề sáp nhập quân lực Phật Giáo Hòa Hảo bằng thương nghị song phương với
Pháp, không chấp nhận sự tham gia của phía Phật Giáo Hòa Hảo khi quyết định về
tương lai của họ. Mặt khác, chánh quyền Việt Nam cũng không muốn trực diện thảo
luận với Phật Giáo Hòa Hảo, mà lại nhờ trung gian của quân đội Pháp mỗi khi cần
tìm hiểu quan điểm của Phật Giáo Hòa Hảo, hay cần thông đạt điều gì cho phía Phật
Giáo Hòa Hảo. Thiệt là một điều bất hợp lý, và điều nghịch lý này chỉ làm trầm
trọng thêm không khí nghi kÿ, ngộ nhận giữa Phật Giáo Hòa Hảo và chánh phủ.
Trên một bình diện cao hơn, đáng lẽ chánh phủ Việt Nam phải nhìn toàn bộ vấn đề
Phật Giáo Hòa Hảo như một vấn đề chánh trị, phải được giải quyết bằng một thái
độ chánh trị hợp lý, thì từ căn bản hợp lý đó, các Thủ tục thi hành sẽ được dễ
dàng trôi chảy hơn. Cái nhìn giới hạn xem vấn đề Phật Giáo Hòa Hảo chỉ có tính
chất hành chánh hay quân sự, làm phát sanh thêm các trở ngại tâm lý từ cả hai
phía.
Hãy đọc một bản văn trong văn khố quân đội Pháp, vào thời điểm 27-5-1954 liên
quan đến những điều nói trên đây:
3 - Bản Văn Mang Tay
Bộ tư lịnh
quân đội Pháp miền Nam chỉ thị cho phái bộ liên lạc MLHH thông báo với Trung tướng
Trần Văn Soái rằng dự án Hòa Hảo ngày 3-4-1954 đã được nghiên cứu bởi Bộ Tư lịnh
Pháp và Việt Nam. Những điều tu chỉnh sẽ được thông báo cho Bộ Tư lịnh Hòa Hảo
qua phái bộ liên lạc, để yêu cầu Bộ Tham mưu Quân lực Phật Giáo Hòa Hảo nghiên
cứu, trả lời gấp... (*)
Thủ tục thể hiện qua bản văn trên đây cho thấy rằng vấn đề Phật Giáo Hòa Hảo được
nhìn như một vấn đề hành chánh. Quyết định về giải pháp là do Bộ Tư lịnh Pháp
và Chánh phủ Việt Nam, phía đương sự chính yếu chỉ tham gia ý kiến qua Thủ tục
đáp ứng gián tiếp, với tư cách người ngoại cuộc. Bộ phận tiếp xúc với Phật Giáo
Hòa Hảo lại là Bộ Tư lịnh Pháp chớ không phải Chánh phủ Việt Nam.
Nếu lúc đó Chánh phủ Việt Nam quan niệm vấn đề Phật Giáo Hòa Hảo là một vấn đề
chánh trị, và nói chuyện trực tiếp với Phật Giáo Hòa Hảo, vấn đề này sẽ dễ dàng
đạt các thỏa thuận nguyên tắc để giải quyết. Hoặc là nếu cần có sự hiện diện của
quân đội Pháp trong giai đoạn chuyển tiếp đặc biệt đó, thì nên có cả sự hiện diện
của đại diện Phật Giáo Hòa Hảo tại các phiên họp, để vấn đề được thảo luận tích
cực và giải quyết minh bạch, trực tiếp và mau chóng.
Trong các tài liệu nói về các lực lượng võ trang giáo phái Việt Nam thật khó
tìm được loại tài liệu khách quan vô tư. Sau này, khi biên soạn tập Quân Sử Việt
Nam, tác giả Phạm Văn Sơn, với tư cách người viết sử, có nêu lên được một nhận
xét khách quan khi phân tích về các Lực lượng Phụ lực quân trong thời kỳ đó,
như sau:
Lực lượng phụ lực quân được phát triển một cách tự do tùy theo nhu cầu binh lực
cung ứng cho các khu vực hành quân, và tùy theo khả năng ngân sách mà Pháp có
thể đài thọ được.
Tới đầu năm 1952, tổng số phụ lực quân trên toàn lãnh thổ Đông Dương gồm có
112,370 người. Vì lực lượng này đông đảo, nên Pháp đã cải tổ lại các đơn vị phụ
lực, đang trong tình trạng phức tạp, thành những đơn vị có cấp số và có một tổ
chức đồng nhất trên toàn cõi Đông Dương (type unique d’unité standard). Kể từ
1-2-1952, tất cả các đơn vị phụ lực quân tại miền Bắc, miền Trung, miền Cao
nguyên, và miền Nam đều được tổ chức thành các đại đội, được gọi là “Đại Đội Nhẹ
Phụ lực quân” (Compagnie Légère de Supplétifs, gọi tắt là C.L.S.)
Phụ lực quân có hai loại với những khác biệt như sau:
— Loại không giáo phái được tổ chức thành đại đội phụ lực quân và đặt dưới hệ
thống chỉ huy của các giới chức quân sự địa phương.
— Loại giáo phái đặt dưới sự chỉ huy của giáo phái và làm việc trong hệ thống
chỉ huy của Pháp.
Phụ lực quân giáo phái đặt dưới sự chi phối của các lãnh tụ giáo phái, hoạt động
trong các khu vực của giáo dân, nên thể hiện được tính chất của một lực lượng
võ trang nhân dân.
Nói đến các lực lượng giáo phái, ta cũng phải ghi nhận một điều là những lực lượng
này đã tự động vũ trang nổi lên vào thời kỳ người Pháp trở lại Việt Nam mùa thu
năm 1945. Những lực lượng này tuy chống Pháp nhưng lại không thể kết hợp được với
Việt Minh. Có thể nói rằng các lực lượng giáo phái là những lực lượng quốc gia
vũ trang đầu tiên, khi chưa có sự hình thành của giải pháp quốc gia.
ở đây, ta thấy rằng các binh đội giáo phái về hợp tác với Pháp, các lãnh tụ của
họ vẫn giữ cho các binh đội này thoát ra khỏi sự chỉ huy của người Pháp, dù
Pháp có ý muốn nắm quyền chỉ huy trực tiếp, Pháp chỉ làm dần dần, vì e ngại sẽ
xảy ra những rắc rối với giáo phái. Sự kiện này cho ta thấy rằng Pháp muốn dồn
mọi nỗ lực để chống Việt Minh, và trong những nỗ lực ấy, có cả nỗ lực của các
giáo phái, nên Pháp phải dung hòa, nhờ thế mà các binh đội giáo phái dù được
Pháp đặt dưới bất cứ một hình thức tổ chức nào (phụ lực quân), vẫn ở ngoài sự
chỉ huy của người Pháp. (*)
Tiếc rằng trong hoàn cảnh rối ren lúc đó, chánh phủ Việt Nam không nhìn thấy
tính chất “nhân dân”, giá trị quần chúng với các ưu điểm lý tưởng tín ngưỡng
như tiềm lực khả tín lâu dài của dân tộc, theo như lối nhìn của sử gia Phạm Văn
Sơn.
Tiến trình sáp nhập quân lực Phật Giáo Hòa Hảo vào quân đội quốc gia khởi đầu từ
1951, nhưng vì đã được nhìn sai lệch, cho nên phải bị trì trệ không kết quả, mà
lại còn tạo thêm nghi kÿ, mặc cảm làm cho vấn đề ngày thêm phức tạp, khó giải
quyết. Từ 1951 đến 1954, vẫn chưa đạt được bước tiến nào đáng kể, mà còn làm
cho quân sĩ đôi bên nhìn nhau như thù địch, thiệt là một điều nghịch lý và đáng
tiếc vô cùng.
Trong khoảng thời gian đó, không khí nghi kÿ đã làm phát sanh một số sự việc
đáng tiếc giữa quân lực Phật Giáo Hòa Hảo và quân đội quốc gia. Điển hình là việc
bắt cóc một số sĩ quan Phật Giáo Hòa Hảo trong lúc họ đi công tác tại Sàigòn.
Những người bị bắt cóc còn bị đánh đập tàn nhẫn trong khu giam cầm của phòng 6,
tức phòng tình báo chính trị của Bộ Tổng tham mưu (lúc đó do Trung tá Trần Đình
Lan chỉ huy). Sự việc khác là biến cố xảy ra tại cầu Bắc Cần Thơ, một tiểu đoàn
quân đội quốc gia do Thiếu tá Nguyễn Văn Ngưu chỉ huy, bị chận lại, và chỉ được
quân lực Phật Giáo Hòa Hảo đồng ý cho di chuyển sau mấy giờ thương nghị gay go.
Việc sáp nhập quân lực Phật Giáo Hòa Hảo, cũng như Cao Đài vào quân đội quốc
gia phải chờ đến khi có được giải pháp chánh trị vào tháng 9-1954, mới được tạm
thời khai thông khỏi tình trạng tắc nghẽn tâm lý và bế tắc về hành chánh. Khi
hai tôn giáo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo tham gia chánh phủ liên hiệp đầu tiên của
Thủ tướng Ngô Đình Diệm (9-54), không khí miệt thị và nghi kÿ được thay thế bằng
không khí hợp tác, cho nên chỉ trong khoảng thời gian ngắn, khoảng hai tháng
sau, những điểm nguyên tắc căn bản đã được thỏa thuận qua thảo luận trực tiếp
giữa Bộ Quốc phòng và Bộ Tư lịnh Phật Giáo Hòa Hảo, đặt nền tảng cho việc sáp
nhập từng đợt. Và ngày 3-11-54, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ban hành nghị định
1025/QP xác định nguyên tắc và thể thức sáp nhập, nghị định 1026/QP ấn định số
quân sĩ đợt đầu sáp nhập là 3.000 người.
Theo các văn kiện này, việc sáp nhập quân lực Phật Giáo Hòa Hảo được thực hiện
từng đợt. Bộ phận Hòa Hảo trong quân đội quốc gia Việt Nam được đặt trong hệ thống
điều động, kiểm soát của quân đội Việt Nam. Cờ Phật Giáo Hòa Hảo được thay thế
bằng quốc kỳ Việt Nam màu vàng ba sọc đỏ, chỉ còn huy hiệu truyền thống của Phật
Giáo Hòa Hảo. Quân sĩ mang đồng phục quân đội quốc gia nhưng còn đeo huy hiệu
Phật Giáo Hòa Hảo và đội ca lô màu dà. Võ khí Phật Giáo Hòa Hảo giao nạp hết
cho quân đội quốc gia, và được trang bị theo biên chế quân đội quốc gia. Đặc điểm
còn bảo tồn một thời gian là Văn phòng đặc biệt đặt tại Bộ Quốc phòng và Cơ
quan cố vấn kiểm soát của Bộ tổng tham mưu đặt bên cạnh Bộ chỉ huy của bộ phận
Phật Giáo Hòa Hảo.
Theo tinh thần hai bản nghị định này, đây là bước khởi đầu của một tiến trình
sáp nhập mang tính chất của giai đoạn chuyển tiếp, để tiến tới sáp nhập toàn vẹn
và toàn bộ.
Tuy nhiên, hai bản nghị định này trở thành ‘’thư chết’’ ngay sau khi ban hành,
bởi lý do khuynh hướng “sáp nhập lập tức và toàn bộ” lúc đó ưu thắng hơn quan
điểm của Bộ quốc phòng. Hai bản nghị định bị ngâm tôm, đình hoãn, bộ trưởng quốc
phòng Hồ Thông Minh bị ra khỏi nội các, việc sáp nhập quân lực Phật Giáo Hòa Hảo
vào quân đội quốc gia cũng bị ngưng đọng tại đây.
4 - Yếu Tố
Mới: Chánh Sách Giảm Binh Của Huê Kỳ
Một lý do
khác cản trở việc thi hành hai bản nghị định trên. Đó là quyết định giảm binh của
Tòa đại sứ Huê Kỳ.
Đầu tháng 12-1954, Chánh phủ Huê Kỳ qua cơ quan Cố vấn Huấn luyện (T.R.I.M.,
Training Relations Instruction Mission) thông báo cho Chánh phủ Việt Nam biết rằng
quân số Việt Nam bây giờ bước vào thời bình, phải tài giảm bắt đầu từ 1-1-1955.
Mục tiêu của chương trình tài giảm là giới hạn 100.000 binh sĩ vào ngày
1-7-1955. Huê Kỳ cũng nói rõ cho biết rằng viện trợ quân sự Mỹ chỉ đài thọ đến
số tối đa đó mà thôi. Nên biết từ 1-1-1955 viện trợ quân sự Mỹ giao thẳng cho
Chánh phủ Việt Nam, không qua tay Pháp như trước đó nữa.
Quan niệm Huê Kỳ là: Việt Nam lưu giữ quân số thường trực 100.000 người, và phải
có chế độ quân dịch để tạo ra lực lượng trừ bị tại gia đông đảo, làm hậu thuẫn
cho quốc gia khi hữu sự. Do đó, không nên có một quân đội chuyên nghiệp mà nên
tạo một đạo quân ở trạng thái luân chuyển, thay đổi liên tiếp bằng cách gọi các
thành phần bị động viên nhập ngũ 18 tháng, rồi cho xuất ngũ về đời sống dân sự,
với tư cách trừ bị tại gia. Kế hoạch này, theo quan điểm Huê Kỳ, sẽ không tốn
kém mà tạo được một lực lượng quốc phòng đông đảo. (*)
Khách quan mà xét, quan điểm Huê Kỳ có thể đúng với quốc gia Huê Kỳ, hay những
nước có sinh hoạt chính trị xã hội bình thường và đã ổn định. Trái lại, tình trạng
miền Nam lúc đó là một tình trạng bất bình thường, chiến tranh vừa tạm chấm dứt
được sáu tháng, các xáo trộn xã hội đầy dẫy, gần một triệu người di cư từ Bắc
vào, lại thêm các xáo trộn chánh trị đang diễn ra mà nguồn gốc cũng là vấn đề
liên hệ đến quân đội, như vấn đề sáp nhập quân lực giáo phái. Lại thêm kỳ hạn gọi
là hiệp thương tuyển cử 7-1956 mà áp lực ám ảnh các giới chánh trị. Ý nghĩ phổ
quát của các giới là cần phải duy trì một lực lượng quân sự mạnh để hậu thuẫn
cho miền Nam đối phó các yêu sách của miền Bắc.
Do đó, vấn đề tài giảm binh bị và “quan niệm quân đội thời bình” của Huê Kỳ đặt
ra ở thời điểm và bối cảnh đó, thật là khó hiểu vô cùng.
Sau đây là một số sự việc xảy ra chung quanh quyết định tài giảm quân số lúc
đó.
Việc giải ngũ quân sĩ đối với Việt Nam đã khó khăn như vậy, thì ngược lại, người
Mỹ lại không ngớt thúc giục, như việc đầu tháng 4-1955, phái bộ quân sự Mỹ đưa
ra một lịch trình giải ngũ mới, và muốn được Việt Nam tích cực thi hành như
sau:
— Tới 1-5-55 quân đội chỉ còn 150.000
— Tới 1-8-55 quân đội chỉ còn 125.000
— Tới 1-11-55 quân đội chỉ còn 100.000
Người Mỹ còn muốn con số 100.000 người chưa phải là mức chót bởi vì tuy muốn
duy trì một quân đội quốc gia ở mức 100.000, nhưng muốn quân số hiện diện phải
rút xuống còn 85.000 hoặc 90.000 rồi bù đắp cho bằng 100.000 người với những thành
phần mới, là những người động viên.
Cuối năm 1954 quân đội có trên 200.000 trong đó có 6.500 sĩ quan, 27.00 hạ sĩ
quan...
Các rắc rối xảy đến với các quân nhân là bởi các quân nhân này bị đẩy ra khỏi
hàng ngũ quân đội một cách vô lý. Sự giải ngũ lại nhắm đa số vào thành phần hạ
sĩ quan có gia đình đông con, nên đã gây ra những phản ứng trong quân đội, như
tại Nha Trang các quân nhân bị giải ngũ đã chưởi bới om sòm, và tại một đơn vị ở
Đà Nẵng, những quân nhân bị giải ngũ không chịu rời khỏi đơn vị, khiến cho đơn
vị trưởng phải áp dụng những biện pháp mạnh, dùng quân xa chở họ và gia đình tới
Đà Nẵng bỏ xuống. (*)
Có lẽ các cố vấn Huê Kỳ quên rằng tại Việt Nam lúc đó không có hệ thống trợ cấp
xã hội như tại Huê Kỳ, và hậu quả trực tiếp của biện pháp giải ngũ là những
quân nhân ra khỏi quân đội bị mất lợi tức, trở thành đội quân thất nghiệp, mà lại
không được hưởng trợ cấp xã hội để sống trong thời gian chưa có việc làm mới.
Cho nên Huê Kỳ khăng khăng đòi giải ngũ, mà không nghĩ đến các hậu quả xã hội,
cũng như hoàn cảnh và phản ứng của các quân nhân bị giải ngũ. Trên lý thuyết,
quan niệm về một quân đội thời bình, để giảm chi phí quốc phòng, đồng thời tạo
lực lượng trừ bị quốc gia đông đảo, có thể xem là rất hay. Nhưng trên thực tế,
đem áp dụng tại Việt Nam giữa bối cảnh chánh trị lúc đó, tất nhiên là có hại
nhiều hơn là có lợi.
5 - Nhận
Xét Của Pháp Về Vấn Đề Sáp Nhập Lực Lượng PGHH Vào Quân Đội VN
Qua một số
tài liệu nghiên cứu của quân đội Pháp để lượng giá quân lực Phật giáo Hòa Hảo,
có những dữ kiện sau đây được tìm thấy trong kho văn khố quân đội mới được
chánh phủ Pháp cho phép các giới được sử dụng từ thời điểm 30 năm sau khi Pháp
rút khỏi Việt Nam.
Cái nhìn tổng quát của Pháp như sau:
— Những cấp chỉ huy Phật Giáo Hòa Hảo, cũng như đa số tín đồ, đều tin rằng họ
là nạn nhân của một chánh sách kỳ thị bất công của chánh phủ quốc gia, do đó
các nỗ lực hợp tác của phía Phật Giáo Hòa Hảo với chánh phủ nặng về mục tiêu
ngăn ngừa chủ trương của phía chánh phủ lấn áp và xâm phạm quyền lợi của họ.
— Mặt khác sự nghi ngờ dè dặt của các cấp chỉ huy phía Phật Giáo Hòa Hảo đã tạo
ra một bức tường ngăn cản sự xen lấn của phía chánh quyền vào công việc của họ,
trong địa phương của họ. Trong một tình trạng như thế, phải mất nhiều ngày giờ
mới mong đạt được kết quả trong địa hạt này. Điều cần thiết phải làm là các giới
chánh quyền nên có mặt thường hơn tại các khu vực Phật Giáo Hòa Hảo, mà củng cố
uy quyền quốc gia.
— Dân chúng Phật Giáo Hòa Hảo khó chịu đối với việc chuyển quyền tại miền Tây từ
Pháp sang Chánh phủ Việt Nam, bởi họ nhận thấy, và trách cứ chánh phủ sử dụng
những cán bộ trước kia đã theo Việt Minh, và mới về đầu thú gần đây. Có thể
chính viên chức chánh quyền hay người sĩ quan quân đội quốc gia được bổ nhậm về
thay thế sĩ quan Pháp tại địa phương đó, trước kia lại đã là cán bộ Việt Minh
trong vùng, đã từng đàn áp Phật Giáo Hòa Hảo, và do đó tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo
vẫn cứ coi người này là Việt Minh, vẫn tiếp tục chống đối, hoặc là không tin cậy,
không hợp tác. Ý thức chống Việt Minh của người Phật Giáo Hòa Hảo rất mạnh, và
họ không muốn phân biệt người Việt Minh cũ với người cán bộ quốc gia bây giờ có
thể đã thay đổi lập trường khi về hợp tác. Đây cũng là một khó khăn trở ngại
cho sự hợp tác giữa chánh quyền Việt Nam và Phật Giáo Hòa Hảo.
— Phật giáo Hòa Hảo đứng về phía chống Cộng trước khi chánh quyền quốc gia thực
sự ra đời, cho nên họ mang tâm lý tự coi là công thần, có công mở đầu, và từ
tâm trạng đó, tự nhiên họ cảm thấy bực bội trước những chánh sách mới, mà họ
không được hay biết gì cả, trong việc chuyển quyền từ Pháp sang Việt Nam.
Trong tình thế mới này, các yếu tố về tương quan lực lượng đã thay đổi, chánh
phủ cương quyết chứng tỏ mình có quyền lực và bắt buộc các giáo phái phải tuân
phục, thì khó tránh được va chạm cả về chính trị lẫn quân sự.
Nhiều lần, các giới chức cao cấp Pháp đã cảnh giác trước về các hậu quả trầm trọng
của một chính sách vụng về trước vấn đề phức tạp tế nhị này, và Thủ tướng Nguyễn
Văn Tâm cũng hiểu, nên ông dựa vào sự quen biết cá nhân với Tướng Trần Văn Soái
mà áp dụng thái độ mềm dẻo để tìm giải pháp dung hòa. Cho nên các chánh phủ trước
Thủ tướng Ngô Đình Diệm, tuy chưa tìm được giải pháp cho vấn đề thống nhứt quân
đội, nhưng cũng không ai nghĩ đến giải pháp táo bạo là dùng võ lực để giải quyết.
Trong một bản phúc trình hàng niên 1952-1953, giới chức quân sự Pháp đã có các
nhận xét vấn đề Hòa Hảo trong mối tương quan với Chánh phủ Việt Nam như sau:
Khối tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo gồm giới tá điền và tiểu nông vô cùng nhiệt thành
đối với tôn giáo của họ, một nền đạo Phật được giản dị hóa, hoàn toàn thích hợp
với lớp người chất phác này. Niềm tin đối với Đạo và Đức Thầy là một sức mạnh
hiện hữu.
Khối quần chúng tín ngưỡng này tuân lịnh thượng cấp một cách đồng loạt. Người
chiến sĩ Phật Giáo Hòa Hảo dù ở nhóm quân sự này hay nhóm quân sự kia, cũng vẫn
coi mình là tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, và vẫn mãnh liệt chống lại Cộng Sản Việt
Minh. Mặc dù ở các vùng xôi đậu, có vài sinh hoạt thương mại giữa tín đồ Phật
Giáo Hòa Hảo tại địa phương với dân trong bưng biền Cộng Sản, nhưng chắc chắn
không thể cho rằng Phật Giáo Hòa Hảo có liên hệ với tổ chức Việt Minh. Vùng đất
nằm giữa hai con sông Tiền Giang và Hậu Giang, kể từ biên giới phía Bắc tỉnh
Châu Đốc giáp giới Cao Miên, dài xuống phía Nam thị trấn Cái Vồn tỉnh Vĩnh
Long, là vùng đất mà Cộng Sản không cách gì xâm nhập được.
Số quần chúng này, và vùng địa dư này gắn bó với nhau thành một khối sanh hoạt,
một thực thể mà chánh phủ phải kể đến. Trong khu vực sanh hoạt của họ, người Phật
Giáo Hòa Hảo với bản chất mộc mạc, có ý niệm cũng mộc mạc giản dị về bộ máy
chánh quyền. Cũng vì khối người này có ít người học thức, cho nên họ có mặc cảm
lo sợ bị lường gạt bởi bên ngoài. Họ rất dè dặt, nghi ngại, nhưng khi họ đã tin
tưởng rồi, nhiều vấn đề sẽ từ từ được giải quyết, với điều kiện là phải nhìn nhận
sự hiện hữu của Phật Giáo Hòa Hảo.
Khối Phật Giáo Hòa Hảo đã đóng góp lớn lao vào việc đánh bại Cộng Sản. Họ chống
Cộng mãnh liệt, mà nguyên nhân là việc Việt Minh đã ám hại vì Giáo Chủ của họ...
Ông Lương Trọng Tường, biệt danh Lê Văn Kinh, đại diện của Tướng Trần Văn Soái
tại Sàigòn, là một người có học thức, giao thiệp rộng rãi tại Sàigòn, có khuynh
hướng sẽ trở thành nhân vật chánh trị của Phật Giáo Hòa Hảo. Ông ngoœ lời trách
cứ Chánh phủ Việt Nam đã không bao giờ tham khảo ý kiến của đoàn thể Phật Giáo
Hòa Hảo. Việc quan trọng như sáp nhập lực lượng võ trang Phật Giáo Hòa Hảo vào
quân đội quốc gia chánh quyền cũng chỉ thảo luận tay đôi với Pháp.
Ông Lương Trọng Tường cho rằng các vị tỉnh trưởng bổ nhậm bởi chánh phủ Việt
Nam để cai trị các tỉnh vùng Hậu Giang, không những đã không đếm xỉa đến ý kiến
của Phật Giáo Hòa Hảo, mà còn là những người không có uy tín nào đối với dân
chúng, cũng không lưu ý gì tới dân chúng. Như thế làm sao mà người Phật Giáo
Hòa Hảo có thể chấp nhận được? Các ông tỉnh trưởng này thiếu khả năng về cai trị,
vì trước đó họ chỉ là những viên thư ký hành chánh thứ yếu, nay nhờ thời cuộc
thân thế mà làm chức lớn. Do đó, những vị tỉnh trưởng này tỏ ra bất lực trong
nhiệm vụ cai trị một tỉnh, khi cần phải lấy các quyết định quan trọng, nói
chung họ là cấp chỉ huy bất lực lại thiếu kiến thức, mà lại còn thêm có đầu óc
kỳ thị đối với Phật Giáo Hòa Hảo...
Phật Giáo Hòa Hảo không được chánh phủ tham khảo ý kiến về các vấn đề trọng đại
liên hệ trực tiếp đến số phận của họ. Sự kiện này đúng hay sai? Và lời chỉ
trích của ông Lương Trọng Tường trên đây là đúng hay sai?
Những người dân sống trong một thể chế dân chủ tiến bộ như Huê Kỳ hay Pháp, chắc
chắn phải đồng ý rằng chánh phủ phải tôn trọng ý nguyện của dân, và các việc
quan trọng liên hệ đến số phận dân chúng, phải có sự tham khảo ý dân, dưới các
hình thức khác nhau: bầu cử, trưng cầu dân ý, trao đổi quan điểm, thương thảo...
Tại Việt Nam, một việc hệ trọng như thế—tức là dẹp bỏ một tổ chức hiện hữu của
dân, để sáp nhập vào cơ chế chung của quốc gia, — hay bổ nhậm một vị cầm đầu một
địa phương cấp tỉnh (State ở Huê Kỳ, Departement ở Pháp), mà người dân đang sống
tại địa phương không được tham khảo ý kiến, dù là dưới hình thức giản dị nhứt
là trao đổi quan điểm. Mức độ dân chủ tại Việt Nam thời kỳ đó không có bầu cử tỉnh
trưởng, thị trưởng, nhưng ít ra cũng phải có sự tôn trọng ý kiến dân chúng,
tham khảo ý kiến các giới tiêu biểu cho thành phần dân chúng sinh sống trong địa
phương liên hệ.
Các Thủ tục đó đã không được thi hành, chánh phủ tự cho mình có quyền lựa chọn,
bổ nhậm các vị tỉnh trưởng đến cai trị các tỉnh mà đa số dân chúng là tín đồ Phật
Giáo Hòa Hảo, không quan tâm chút nào đến ý kiến của Phật Giáo Hòa Hảo. Theo
tài liệu, dân số tỉnh Long Xuyên thời kỳ đó khoảng 350.000 người, trong số này
đã có gần 250.000 là tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, nhưng vị tỉnh trưởng Long Xuyên
đã được bổ nhậm theo ý riêng của chánh phủ, bất chấp và không tham khảo ý kiến
với Phật Giáo Hòa Hảo.
Vấn đề hệ trọng hơn và xảy ra vào những năm 1952-1954, Pháp lần lượt chuyển quyền
cai trị sang chánh phủ quốc gia Việt Nam, làm phát sanh vấn đề giải quyết tình
trạng các quân lực giáo phái như Cao Đài, và Phật Giáo Hòa Hảo. Đây là một vấn
đề lớn trong sanh hoạt xã hội và chánh trị: giải thể một cơ chế hiện hữu để sáp
nhập vào cơ chế quốc gia, có thể xem là một tình trạng thay đổi cơ cấu quốc
gia. Đáng lẽ việc này phải được giải quyết qua tiến trình thảo luận giữa hai
thành phần chính yếu liên hệ là chánh phủ và giáo phái này, lại đã không được
thực hiện một cách hợp lý như vậy. Pháp và chánh phủ Việt Nam đã thảo luận tay
đôi, quyết định tay đôi, để rồi khi đem ra thi hành, gặp nhiều trở ngại, mà trở
ngại lớn nhất là trở ngại tâm lý. Khi phía Phật Giáo Hòa Hảo nhận thấy rằng những
giới khác tự ý giải quyết số phận của mình, họ cho rằng họ bị kỳ thị, khinh miệt.
Đó là trở ngại tâm lý, đưa dần đến cuộc thanh toán bằng võ lực năm 1955.
Những sự kiện trình bày trên đây đã làm cho công cuộc sáp nhập các quân lực
giáo phái vào quân đội quốc gia phải đình hoãn, với các biến chứng chính trị mà
chúng ta đã chứng kiến ở thời điểm 1955. Vấn đề này không phải không có giải
pháp thỏa đáng, nhưng đáng tiếc là giải pháp quân sự đã được ưu thế và được chọn
lựa bởi Thủ tướng Ngô Đình Diệm.
6 - Giải
Pháp Quân Sự Của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm
Tại sao
Thủ tướng Ngô Đình Diệm dùng quân đội để dẹp các quân lực giáo phái Cao Đài,
Hòa Hảo? Nguyên nhân nào làm cho không đạt được thỏa hiệp giữa ông và các giáo
phái?
Vấn đề này đã thuộc về lịch sử quá khứ, và là một vấn đề rất phức tạp, chớ
không giản dị như lập luận của phía chánh phủ đưa ra là “phải thống nhứt quân đội,
vì các giáo phái chống lại, nên phải dùng quân lực để dẹp...”
Cố nhiên nguyên tắc căn bản “một quân đội quốc gia duy nhứt” là điều không thể
bàn cãi, mà bắt buộc phải như thế. Điều này, vẫn trên nguyên tắc, các tổ chức
quân lực Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo đều hoàn toàn đồng ý. Sự khác biệt nằm
trong phạm vi kế hoạch thực hiện và phương pháp áp dụng kế hoạch thống nhứt
quân đội.
Muốn hiểu vấn đề, phải hiểu từ nguồn gốc của nó. Vì sao và trong hoàn cảnh nào
phát sanh tình trạng quân đội gọi là “giáo phái”? Quân đội giáo phái đã đóng
góp được những gì? Và có những nguyện vọng nào?
Ông Ngô Đình Diệm đã đi xa Việt Nam từ nhiều năm, nên ông không hiểu rõ tình
hình trong nước. Ông có thể biết sơ lược tình hình chánh trị, nhưng rất khó hiểu
được người dân Miền Nam có tâm trạng nào, ước vọng những gì? Được Quốc trưởng Bảo
Đại giao phó toàn quyền Thủ tướng, ông từ ngoại quốc về Sàigòn chấp chánh.
Trong con người ông Thủ tướng mới, tai hại thay, đã có sẵn hai thành kiến:
thành kiến của người tín đồ Công Giáo đối với các tôn giáo khác ở Miền Nam, và
thành kiến của một ông quan hành chánh đối với các tổ chức quân sự giáo phái.
Diễn tả theo phương pháp tương đồng, có thể hiểu thái độ ông giống như thái độ
của triều đình Huế đã trừng phạt các lãnh tụ nghĩa quân kháng Pháp thời trước
như Trương Công Định, Nguyễn Hữu Huân, khi các lãnh tụ này bất tuân lịnh buông
súng giải tán do triều đình hạ chỉ. Triều đình không chấp nhận trạng thái bất
tuân thượng lịnh. Ông đã nói với nhiều người rằng “các giáo phái dơ dáy lắm”.
Thành kiến đó đã hình thành trong nếp suy nghĩ của ông, do các tin tức sai lầm
phiến diện mà ông được cung cấp khi ông còn lưu vong hải ngoại. Ông không hiểu
được nguồn gốc phát sanh các quân lực giáo phái và các điều kiện chiến đấu thiếu
thốn của họ. Về mặt tôn giáo, con người rất mộ đạo Thiên Chúa ấy cho rằng chỉ
có đạo Chúa mới là chánh đạo, là tốt, cần được phát triển. Khi một ông Thủ tướng
đã có sẵn mặc cảm tự cao tôn giáo và thành kiến về các giáo phái như thế, tất
nhiên cái nhìn của ông đối với các quân lực Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo khó có
thể đúng và thiện cảm được.
Điều bất hạnh kế tiếp là ông có những cố vấn thiếu vô tư, kém sáng suốt, không
nhìn xa thấy rộng, cũng lại có sẵn các thành kiến ác cảm đối với quân lực các
giáo phái. Người cố vấn về các vấn đề Miền Nam mà ông Diệm tin cậy nhứt lúc đó,
là ông đốc phủ sứ Nguyễn Ngọc Thơ. Nếu người cố vấn ấy không phải là ông Thơ,
mà là một con người cách mạng có tâm hồn “tổ quốc trên hết”, và có kiến thức
cao rộng, thì chắc chắn các vấn đề giáo phái đã không phải giải quyết bằng võ lực.
Nhưng ông đốc phủ sứ Nguyễn Ngọc Thơ lại chẳng phải là người tranh đấu cách mạng,
cũng không phải là người có tầm kiến thức cao rộng của cấp lãnh đạo quốc gia. Bản
chất ông là một quan lại, xuất hiện từ một gia đình giàu có được ưu đãi trong
xã hội miền Tây, cả đời là một vị công chức cao cấp theo Pháp, và thực tế là một
người mang sẵn ác cảm đối với các giáo phái, đặc biệt đối với Phật Giáo Hòa Hảo,
vì lý do ông đã không được Phật Giáo Hòa Hảo kính phục và tuân lịnh khi ông
hành xưœ quyền cai trị tại tỉnh Long Xuyên.
Ông Thơ đã cố vấn cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm về các biện pháp đối phó với Phật
Giáo Hòa Hảo, trong chiều hướng triệt hạ uy thế của tôn giáo này. Mặc cảm giai
cấp, quyền lợi và ác cảm có sẵn, là các lý do khiến ông đã tìm mọi cách hướng
Thủ tướng vào đường lối triệt hạ thế lực Phật Giáo Hòa Hảo.
Ông Diệm đã hành động theo đường lối đó, đã dùng võ lực triệt hạ các tổ chức
quân sự Phật Giáo Hòa Hảo, đã lừa bắt Tướng Lê Quang Vinh, và đưa lên pháp
tràng hành quyết (1956).
Vấn đề ảnh hưởng của các vị cố vấn này, không phải chỉ là điều võ đoán cá nhân,
mà là điều rất nhiều người cũng nghĩ như vậy. Tác giả Nhị Lang trong cuốn sách
“Phong trào Kháng chiến Trình Minh Thế” khi tiếp xúc với ông Ngô Đình Diệm,
cũng rất lo ngại về ảnh hưởng của các vị cố vấn, mà ông cho là lớp trí thức
quan lại đã theo phục vụ cho Pháp, và tiếp tục vì quyền lợi riêng tư, gây ung
thối guồng máy quốc gia, ảnh hưởng tai hại không ít.
Trong bài diễn văn ấy, tôi còn nhớ rõ, tôi đã nêu chủ trương đối phó thẳng tay
với bọn quan lại thối nát, với những hàng “đốc phủ sứ” tay sai đắc lực của
Pháp, đồng thời yêu cầu chính phủ bài trừ nạn cờ bạc, đĩ điếm, vốn là cái tệ trạng
kinh niên của thành phố Sàigòn. Ông Nhu đọc mấy đoạn văn naœy lửa kia, rồi cười
mà bảo chúng tôi: “Quý anh em ở trong rừng nên không thấy rõ các vấn đề mà Cụ
(tức ám chỉ Thủ tướng Diệm) đang đối diện. Chung quanh cụ còn đầy dẫy những
quan lại, những đốc phủ sứ. Nếu các thành phần này thấy Cụ rục rịch đánh họ,
thì họ sẽ tức khắc xúm nhau lại phá phách. Chính phủ đối phó sao nổi trong giai
đoạn này? Vậy thôi, xin anh em vui lòng bỏ qua cho!” Nói xong, ông Nhu ngẩng mặt
nhìn tôi với nụ cười cầu hòa. Thấy ông có lòng thành khẩn và khiêm tốn như thế,
chúng tôi chẳng dám để ông nhắc lại lần thứ hai, bèn thuận ý xóa bỏ ngay mấy đoạn
văn vừa kể trên. (*)
Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã nhìn thấy Phật Giáo Hòa Hảo qua lăng kính của ông
Nguyễn Ngọc Thơ, và với thành kiến của chính ông, cũng là một vị quan lại, cho
nên ông chỉ hiểu được một phần của vấn đề, cái phần bề mặt, chớ không hiểu được
toàn bộ và chiều sâu của vấn đề. Ông đã hiểu sai, và do đó đã hành động sai.
Nếu lúc đó ông biết đặt vấn đề các giáo phái trên bình diện lịch sử của hai tôn
giáo Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo, tìm hiểu bối cảnh và nguyên nhân phát sanh
các quân lực giáo phái Miền Nam, tìm hiểu vai trò quần chúng của tôn giáo
này... thì có lẽ ông đã hiểu đúng vấn đề, và đã không thấy cần thiết phải dùng
võ lực để “đánh dẹp giáo phái”.
Nếu ông hiểu được rằng dùng sức mạnh quân sự đánh dẹp quân lực võ trang giáo
phái và đàn áp hai tôn giáo Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, là gây hấn với một khối
quần chúng khoảng bốn triệu người, đồng thời tạo mâu thuẫn tôn giáo, với hậu quả
tất nhiên là làm rạn nứt tiềm lực quần chúng Miền Nam. Trong số quần chúng Miền
Nam khoảng hai mươi triệu dân năm 1955, phải nói rằng bốn triệu tín đồ trong
hai tôn giáo là thành phần tích cực nhứt của trận tuyến chống Cộng Sản. Chánh
sách sai lầm của ông Diệm quả đã phá vỡ phòng tuyến chống Cộng đó, tạo ra một
tiêu hao lớn lao trong tiềm lực dân tộc, điều này tất nhiên phải có những hậu
quả trầm trọng về sau, không thể nào tránh được.
Tác giả tập “Hồi ký Chánh trị — Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi”, Thiếu tướng Đỗ
Mậu, một cộng sự viên thân tín và tận tụy của Thủ tướng Ngô Đình Diệm, đã viết
rằng:
Miền Nam mất vào tay cộng Sản năm 1975 cũng chỉ là kết quả tất yếu cuối cùng của
một chuỗi dài hệ quả dây chuyền mà đầu mối tai hại là sự thành hình của một tổ
chức ma quái tên là “Cần Lao Nhân Vị”.
Quy luật chánh xác là chính chủ trương độc tài, độc đảng, tiêu diệt tôn giáo và
đảng phái quốc gia của anh em ông Diệm và đảng Cần Lao Công giáo, đó là những
nguyên nhân sâu xa nhất và chính yếu nhất làm cho Miền Nam Việt Nam từ đó phải
suy nhược, và cuối cùng rơi vào tay cộng Sản năm 1975...
Từ tiền đề thực tế và đau đớn đó, anh (Phan Nhật Nam) nhìn lại dòng lịch sử ba
mươi năm qua để định giá lại công tội của các bậc đàn anh và đặc biệt lên án chế
độ Ngô Đình Diệm mà anh cho là Thủ phạm chính trong việc “sẩy tay” làm cho Miền
Nam rơi vào tay Cộng Sản.
Cuối cùng và để cho rốt ráo hơn, một trong những cái mầm mống quan trọng khiến
cho Miền Nam sụp đổ đã được ông Diệm gieo lên từ ngay sau khi ông thành lập
chính phủ đầu tiên vào năm 1955, chứ không phải đợi đến lúc MTGPMN ra đời vào
năm 1960 để ông phải hốt hoảng tố cáo với 92 quốc gia trên thế giới hai năm sau
đó. (*)
Cùng với sự hiểu biết thiếu sót về Miền Nam, ông Diệm đã không tìm hiểu hoàn cảnh
và nguyên nhân phát sanh các tổ chức quân sự của tôn giáo Cao Đài và Phật giáo
Hòa Hảo. Nếu ông biết được rằng ngay từ 1945, hai tôn giáo này đã là những
thành phần đầu tiên tại Miền Nam, tự nguyện và tự động đào luyện thanh niên, tổ
chức các đơn vị võ trang để chống lại đoàn quân viễn chinh của Pháp, và chống
luôn chánh sách độc tài của Cộng Sản, nếu hiểu rõ được sự kiện lịch sử đó, thì
ông mới lượng giá được bản chất dân tộc yêu nước và đường lối chống Cộng triệt
để của hai tôn giáo này, có giá trị khả tín và bền vững hơn “hiện tượng” chống
Cộng của các phần tử xu thời chung quanh ông.
Nếu ông hiểu được rằng hai tôn giáo Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo bản chất là
phong trào quần chúng tín ngưỡng yêu nước, giáo lý của hai tôn giáo này bao gồm
các giá trị văn hóa và truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam, chớ không phải
là tà thuyết tà đạo (như thành kiến thông thường và sai lầm của một số người)
thì ông đã có một thái độ kính trọng tối thiểu, thay vì thái độ chủ quan và
khinh mạn tai hại kia. ở cương vị một Thủ tướng, nếu ông nhìn thấy giá trị đích
thực của khối quần chúng tín ngưỡng bốn triệu dân kia, thì thay vì “đánh cho
tan” ông đã phải tìm mọi cách để hợp tác, để bảo tồn, bởi vì đó là bảo tồn sức
mạnh của Miền Nam trong một tình thế phải chuẩn bị đối phó với âm mưu thôn tính
mà Hồ Chí Minh đã sắp đặt sẵn từ Hànội.
Nếu ông Ngô Đình Diệm hiểu được rằng trong thời kỳ Việt Nam chưa có chánh quyền
quốc gia, chưa có quân đội quốc gia, ở thời điểm 1947 về sau, mà không có lực
lượng chống Cộng của hai tôn giáo Miền Nam, thì tổ chức nào dám nhận nhiệm vụ
trực diện đối đầu với các lực lượng võ trang của Cộng Sản? Các nhân viên hành
chánh, các toán partisan thân binh của Pháp, với tinh thần cầu an hưởng lợi chắc
chắn không phải là đối Thủ của Cộng Sản. Kể cả quân đội viễn chinh Pháp cũng chỉ
tạo được bề ngoài an ninh mong manh mà thôi. Thực sự thì nền an ninh của miền
Tây Nam Việt chỉ vững vàng và bành trướng từ sau khi các tổ chức võ trang Phật
Giáo Hòa Hảo chấp nhận hợp tác để trục xuất các bộ đội Cộng Sản ra khỏi vùng
lãnh thổ này. Nói cách khác, nếu trong thời kỳ chưa có chánh quyền và quân đội
quốc gia, mà không có luôn các quân lực giáo phái, thì ảnh hưởng Cộng Sản đã
lan tràn khắp Miền Nam. Và như thế thì làm sao có cơ hội để ông Ngô Đình Diệm về
nước chấp chánh và cai trị.
Nếu Thủ tướng Diệm hiểu được rằng các chiến sĩ Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo đã
đóng góp bao nhiêu xương máu để bảo vệ Miền Nam và đã chiến đấu trong các điều
kiện thiếu thốn, thiệt thòi, mà tinh thần vẫn cao, hiệu năng vẫn tốt, thì ắt là
Thủ tướng đã lấy tình thương yêu, lòng biết ơn mà đối với họ, thay vì chỉ chê
bai họ là “dơ dáy” và đem quân đánh dẹp họ như kẻ thù.
Ngay từ bước khởi hành, vấn đề sáp nhập quân lực các giáo phái và quân đội quốc
gia đã bị quan niệm sai và được giải quyết bằng phương thức sai.
Về quan niệm, trước hết phải nhận định rằng căn bản của vấn đề là chánh trị, chớ
không chỉ đơn giản quân sự. Các chánh phủ liên tiếp từ 1952 đến 1954, trước Thủ
tướng Ngô Đình Diệm, tuy có nhìn thấy tầm quan trọng về chánh trị của vấn đề
này, nhưng đã áp dụng phương thức giải quyết thiếu thực tế. Tuy nhiên lúc đó
không vị Thủ tướng nào có ý nghĩ cực đoan táo bạo dùng võ lực để giải quyết,
như Thủ tướng Diệm đã làm năm 1955. Một khía cạnh khác cũng khá quan trọng, là
thái độ của giới cầm đầu quân đội quốc gia lúc đó. Các sĩ quan trong Bộ Tổng
tham mưu quan niệm giải quyết các quân lực giáo phái đơn thuần như thực hiện một
cuộc hành quân, và xem việc giải tán các tổ chức quân sự giáo phái, tước võ khí
xong, là đạt mục phiêu tối hậu của cuộc hành quân rồi. Vấn đề không giản dị như
thế, vì nó liên hệ đến một khối quần chúng đại diện khoảng 1/5 dân số Miền Nam.
Khối quần chúng này lại có những đặc tính chánh trị chớ không như quần chúng
thông thường khác.
Đặc tính thứ nhứt là tôn giáo.
Đặc tính thứ hai là triệt để chống Cộng.
Đặc tính thứ ba là có tổ chức và có võ trang.
Nếu chỉ là một tổ chức võ trang, mà không phải là tôn giáo — như tổ chức võ
trang Bình Xuyên chẳng hạn — thì quan niệm đơn thuần của bộ Tổng tham mưu quân
đội có thể hữu lý. Vì cuộc hành quân, khi đã đạt mục phiêu quân sự rồi, có thể
xem là đã giải quyết xong vấn đề Bình Xuyên, nhưng chắc chắn là chưa giải quyết
xong vấn đề Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo. Thực tế lịch sử sau 1955 đã chứng
minh điều này. Bộ Tổng tham mưu đã thắng một cuộc hành quân, nhưng Tổng thống
Ngô Đình Diệm đã thất bại, đã thua một trận giặc. Chế độ Ngô Đình Diệm đã dẹp
được các tổ chức võ trang, nhưng không dẹp được ngọn lửa bất mãn chống đối âm ỉ
cháy mãi trong lòng bốn triệu người Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo.
Phía Huê Kỳ, Tướng tình báo Lansdale có thể hãnh diện vào năm 1955 rằng đã
thành công trong chiến dịch dẹp các quân lực giáo phái và củng cố chế độ Ngô
Đình Diệm. Nhưng chỉ ít năm sau đó, khi cái voœ bao đường bên ngoài đã tan đi,
chính Tướng Lansdale đã phải nếm đến tê lưỡi những chất đắng cay trong bản chất
viên thuốc độc đó.
Chế độ Đệ nhứt Cộng Hòa phải sụp đổ, không phải chỉ vì hành động tấn công Phật
Giáo năm 1963, mà nguyên nhân sụp đổ đã nằm sẵn từ những cuộc hành quân đánh dẹp
hai tổ chức quân sự Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, làm mất niềm tin quần chúng.
Khi mà viên tư lịnh hành quân Dương Văn Minh, được đeo vào ngực những vòng hoa
chiến thắng, hay là khi chiếc máy chém của chế độ đã phập xuống cổ viên “loạn
tướng Hòa Hảo” Lê Quang Vinh, những nhân sĩ trí thức Miền Nam đã nhìn thấy ngay
cái thế tất bại của ông Ngô Đình Diệm rồi.
Một thực tế lịch sử khác là trường hợp Tướng Trình Minh Thế tuy kéo quân từ chiến
khu núi Bà Đen về hợp tác với ông Diệm và Tướng Lansdale, nhưng chỉ ít tháng
sau đã cảm thấy bất mãn. Nếu ông không từ trần tại cầu Tân Thuận, thì chỉ ít
lâu sau, ông Diệm sẽ phải mở một cuộc hành quân “đánh dẹp lực lượng võ trang
giáo phái Trình Minh Thế”. Viên tướng có tinh thần độc lập và thẳng thắn này,
tuy đã về thành hợp tác, tuy đã trở thành một cấp chỉ huy quân đội quốc gia Việt
Nam, nhưng trong không khí của bầu trời chánh trị quân sự Sàigòn lúc đó, ông đã
tự cảm thấy “mình không giống những tướng tá quân đội quốc gia”. Trình Minh Thế
là một loại người khác, có bản chất khác hẳn với bản chất và nguồn gốc của các
tướng tá mà ông gặp tại các buổi tiếp tân trong các dinh thự Sàigòn. Các tướng
tá này, tuy bề ngoài nhã nhặn lịch thiệp, tuy ngoài mặt vui mừng đón nhận một
viên tướng kháng chiến bưng biền về đứng chung hàng ngũ quân đội quốc gia,
nhưng trong thâm tâm, họ vẫn có mặc cảm tự tôn cho rằng anh tướng bưng biền và
nông dân kia không trí thức, không xuất thân các trường quân sự cao cấp (của
Pháp) như họ. Trộn lẫn với mặc cảm tự tôn đó, là một niềm lo âu, e sợ rằng cái
thế của Trình Minh Thế đang lên, có thể làm mờ mất ánh sáng các ngôi sao của
chính họ. Bởi vì họ tự biết rằng các ngôi sao của họ chỉ lóng lánh dưới ánh đèn
điện đô thị mà thôi; nếu ra chiến trường, trong bóng tối bưng biền và tại các
môi trường nguy hiểm mà giá trị chân thực của chiến sĩ là lòng dõng cảm can trường,
khả năng chịu đựng gian khổ, — thì ngôi sao của Tướng Thế sẽ sáng rực lên, và
ngôi sao của một số tướng lãnh trí thức sẽ bị mờ đi một cách thê thaœm. Cố
nhiên cũng có một số sĩ quan quân đội quốc gia xuất sắc, tài ba và dõng cảm, ở
đây chỉ đề cập những lớp người có các ưu điểm đó, trong thời điểm đó. Những lớp
sĩ quan VNCH sau này có ý thức và kiến thức cao hơn lớp người của buổi giao thời
đó.
Chạm trán thực tế xã hội và tâm lý đó, Tướng Trịnh Minh Thế luôn luôn bực rọc,
khó chịu, bởi ông cũng đủ thông minh để đọc được cảm nghĩ thầm kín của những tướng
tá kia đối với ông. Ông đã chính mình trải qua nhiều trắc nghiệm, thí dụ khi trận
tuyến cầu Tân Thuận cần đến ông, ông cần quân xa chuyển vận, nhưng đã không được
cung cấp đến đỗi ông phải giận dữ hét lên trong điện thoại với Trung tá quân trấn
trưởng Dương Văn Minh rằng: “Tại sao giờ này mà Trung tá vẫn chưa cung cấp số
quân xa theo lệnh tôi?”
Hãy đọc một đoạn văn của tác giả Nhị Lang, cố vấn chánh trị của Tướng Trình
Minh Thế viết về tình trạng đó.
Trong hai cuộc tiếp tân đặc biệt dành cho Tướng Thế tại dinh Độc Lập và tại tư
thất của Tướng Lê Văn Tÿ đường Hùng Vương, tôi luôn luôn ở gần Tướng Thế để ngầm
báo cho ông biết là cá nhân ông đã trở thành “cái đinh” trước mắt nhiều người,
nhất là đối với các sĩ quan bao bọc chung quanh Tướng Lê Văn Tÿ. Tôi bắt gặp
trong cái nhìn của họ một sự khiếp sợ chen lẫn với nỗi ghen ghét đố kÿ. Vì dù
muốn dù không, thì theo cấp bực, từ nay họ phải dưới quyền một con người được
coi là “ngoại lai”, nghĩa là một con người không cùng chung một lò đào luyện với
họ, một con người khét tiếng anh dũng, xuất thân từ hàng nông dân áo vaœi, lập
nên sự nghiệp bằng trí óc và tài năng riêng của mình, một con người tuy nhỏ nhắn
đen đúa nhưng chẳng biết sợ ai! Và dĩ nhiên là tôi cảm thấy lo ngại giùm cho Tướng
Thế. Tôi xem cảnh ngộ ông chẳng khác gì cảnh ngộ một cô gái, mới bước về làm
dâu một gia đình nhà chồng mà người thương thì ít, kẻ ghét lại nhiều! Ông là một
chiến sĩ cách mạng quen sống một cuộc đời hiên ngang phóng túng, còn các ông tướng
tá kia đều trưởng thành trong một quân đội hoàn toàn do Pháp đào luyện, lại vừa
mới được chuyển giao sang chính quyền Việt Nam, thì ta không thể nói là ảnh hưởng
của Pháp một sớm một chiều đã phai đi ngay được.
Song song với tâm lý đố kÿ kẻ “ngoại lai”, biết đâu chả có một số các sĩ quan
“cựu trào” đang âm thầm nuôi mối thù hận đối với Tướng Thế, đang coi ông như một
địch Thủ hơn là một người đồng đội? Rút cục, sự hợp tác với chính quyền chỉ đem
cái lợi tinh thần về cho Thủ tướng Diệm, còn riêng cá nhân Tướng Thế, chỉ vô
tình rước lấy những hiểm nguy rình rập đâu đây trong bóng tối. Con hổ đã xa rừng,
con hổ sẽ khó sống. Tôi tự nghĩ thế, và tôi thầm trách oán cả Thủ tướng Ngô
Đình Diệm lẫn người đồng chí họ Trình của tôi, cả hai đều đã quên nghĩ tới mặt
trái của công cuộc hợp tác. Dù Thủ tướng Ngô Đình Diệm có lòng thương yêu Trình
Minh Thế tới đâu chăng nữa, ông cũng không thể nhất thời ngăn chận được nỗi thù
hận ngấm ngầm trong tâm tư những kẻ đã từng được Pháp “đội mũ mặc áo cho” từ những
ngày xa xưa. Huống chi thực tế đã chứng minh Thủ tướng Ngô Đình Diệm chưa làm
chủ được quân đội quốc gia. Cái họa phản loạn của Tướng Nguyễn Văn Hinh còn sờ
sờ ra đó. Còn Tướng Lê Văn Tÿ dù có nhận áo mão do Thủ tướng Diệm ban cho, thì
vị tất ông ấy đã hết dạ trung thành với vị tân Thủ tướng mà Bảo Đại bất đắc dĩ
phải kén chọn đưa về nước cầm đầu chính phủ! Tướng Lê Văn Tÿ có trung thành với
Ngô Đình Diệm hay không, thì biến cố trong đêm 30 tháng 4 tại dinh Độc Lập (xem
chương XVI) đã trả lời dư luận, và riêng tôi xin làm chứng nhân... (*)
Trường hợp Tướng Thế tiêu biểu cho nếp suy nghĩ và phản ứng của những chiến sĩ
gọi là “quân lực giáo phái”, những con người bản chất nông dân và tín ngưỡng,
ít học thức nhưng nhiều can đảm, kém lịch duyệt nhưng nhiều nhiệt huyết, lý luận
mộc mạc nhưng dám làm dám chịu. Hãy đơn cử một sự việc để dễ so sánh và nhận
xét. Năm 1945, tại miền Nam, khi Trần Văn Giàu ló mòi độc tài cộng Sản tại Ủy
ban Hành chánh Nam bộ ra mắt ngày 25-8-1945 chính anh chiến sĩ Cao Đài Trịnh
Minh Thế đã dám rút cây súng chỉ thẳng vào Trần Văn Giàu mà nói rằng: ‘’Mày là
Việt gian lén lút đi với Pháp, tao phải bắn nát đầu mày...”
Có thể rằng đó là lối phản ứng bộc trực của những con người mộc mạc, mà người lịch
thiệp không thích; cũng có thể rằng đó là nhiệt tình của những con người can đảm
liều mạng, ít suy luận, khác với những người suy tính kỹ lưỡng nhưng không dám
hành động, e ngại trước khó khăn, rụt rè trước nguy hiểm.
Thêm một so sánh nữa. Trong lúc Tướng Trình Minh Thế đang kháng chiến chống
Pháp thì phần lớn các vị sĩ quan kia đứng vào hàng ngũ quân đội Pháp, do đó
không thể tránh được sự cách biệt tư tưởng, và tình cảm đối với nhau.
Dù đã trở thành sĩ quan cấp tướng trong hàng ngũ quân đội quốc gia, Tướng Thế vẫn
không thể thân thiện ngay với những sĩ quan mà ông không cảm phục, lại còn cảm
thấy mình bị kỳ thị. Dù có được Thủ tướng Ngô Đình Diệm đặc biệt đãi ngộ, Tướng
Thế cũng không thể thoải mái trong khung cảnh chật hẹp, xa lạ kỳ thị, giống như
con cá từng sống ngoài biển nước mặn thênh thang, khó sống trong cái hồ nước ngọt
chật hẹp được. Cho nên, nếu ông không qua đời, thì sớm muộn gì ông cũng sẽ lại
phải kéo quân vào bưng, trở về với biển cả rừng xanh.
Ngoài ra, tuy mặc quân phục, ông vẫn là tín đồ đạo Cao Đài, còn mối liên hệ mật
thiết với tín ngưỡng của ông. Ông có thể bỏ ông Ngô Đình Diệm, nhưng chắc chắn
không bao giờ bỏ tôn giáo Cao Đài của ông. Những người sống không tín ngưỡng rất
khó hiểu được điều này. Chỉ những tín đồ đã quy y theo một tôn giáo, mới cảm nhận
được sự ràng buộc thiêng liêng và trường cửu của tín ngưỡng, ràng buộc ở hiện
kiếp và luôn ở kiếp sau. Cho nên, dù Tướng Trình Minh Thế có được chánh phủ ưu
đãi, nhưng người tín đồ Trình Minh Thế không thể không có phản ứng chống đối lại
cái chánh phủ đó, khi tôn giáo của ông bị uy hiếp hay khinh bạc.
Đó là một phần tâm lý phức tạp của quần chúng và chiến sĩ Cao Đài và Phật Giáo
Hòa Hảo, làm cho họ có thái độ e dè, nghi ngại, mà các giới bên ngoài diễn tả
là “địa phương, ích kyœ, thiển cận, bè phái...” Chính họ không muốn hòa hợp với
các giới bên ngoài, hay chính các giới bên ngoài không muốn hòa hợp với họ?
Chính họ có thái độ kỳ thị hay chính bên ngoài có thái độ kỳ thị đối với họ?
Những câu hỏi trên đây chỉ được giải đáp hữu ích bởi các nhà tâm lý học hay
phân tích xã hội. Nhưng điều bất hạnh đã xảy ra là: Không bao giờ chính quyền
quốc gia đặt các vấn đề này một cách khách quan, để mà khách quan phân tích, giải
quyết. Trái lại, giới chánh quyền và quân đội quốc gia lúc đó nhìn các tôn giáo
Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo là “lớp nông dân thất học” và các lãnh tụ quân sự
tôn giáo này là “lạc hậu ngoan cố, chỉ nghĩ đến quyền lợi bè phái, địa
phương...” Các tôn giáo này đã bị trách cứ là “không nghĩ đến quyền lợi quốc
gia, mà nặng về quyền lợi bè phái”. Những điều trách cứ này có đúng không, đó
là một vấn đề khá phức tạp. Thưœ đặt ngược vấn đề lại rằng: những người lên tiếng
trách cứ như thế, chính họ có thực tâm vì quyền lợi quốc gia không? Thực tế tại
Việt Nam đã cho thấy rằng các giới cầm quyền kế tiếp nhau, các giới có quyền
bính trong tay, có mấy ai đã đặt quyền lợi tối thượng của quốc gia lên trên quyền
lợi cá nhân và bè nhóm? Về phía các tôn giáo cũng thế, trong bốn tôn giáo chính
yếu tại Miền Nam là Thiên Chúa Giáo, Phật Giáo, Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, tôn
giáo nào có nhiều ưu quyền và tài Sản nhứt? Và tôn giáo nào bị thiệt thòi nhứt?
Xin cứ khách quan nhìn vào thực tế lịch sử để tìm câu trả lời trung thực, và để
hiểu đúng vấn đề.
Một giai đoạn lịch sử hai mươi năm đã đi qua từ 1955 đến 1975.
Thời lượng hai mươi năm cũng tạm đủ để chứng minh sự thất bại của “trận giặc
đánh dẹp các quân lực giáo phái năm 1955”.
Ông Ngô Đình Diệm đã lãnh đạo quốc gia Việt Nam chín năm (1954-1963) nếu ông đã
nhẫn nại và khôn khéo tranh Thủ được sự ủng hộ của quần chúng và nhân sĩ Miền
Nam, thì ông đã có thêm được rất nhiều yếu tố thuận lợi, để xây dựng một Miền
Nam cường thịnh vững vàng. Ông Diệm có được một cơ hội tốt, nhờ có một khoảng
thời gian hòa bình sau 1955, nhờ có sự ủng hộ dồi dào phương tiện của Huê Kỳ,
đó là điều kiện thuận lợi. Nếu ông tranh Thủ được thêm nhân tâm đa số quần
chúng Miền Nam thì tình thế hẳn đã tốt đẹp bội phần, và ông đã không đến đỗi bị
thaœm sát, chế độ của ông sụp đổ, kéo luôn Miền Nam vào một thời kỳ đen tối, bởi
nền móng đã bị đục ruỗng trong suốt chín năm ông cai trị.
Thái độ coi thường giá trị quần chúng hai tôn giáo Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo
là một thái độ phản chánh trị, cũng là thái độ độc tôn độc tài. Đến đây, người
viết sách này lại nhớ đến lời nói của hai vị Giáo Chủ Cao Đài và Phật Giáo Hòa
Hảo về lòng dân. Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc thường nói rằng:
Dân chúng như nước dưới sông, thuyền đè trên nước, nhưng hãy coi chừng khi nước
nổi sóng, nước sẽ lật thuyền dễ dàng.
Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật giáo Hòa Hảo có nói:
Lòng dân chớ khá xem khinh,
Bạo tàn giết mất nhân tình, thì thua.
Nhưng hãy đặt ngược vấn đề lại. Nếu không áp dụng giải pháp võ lực, thì có giải
pháp nào trong tình huống 1955? Làm sao thỏa mãn được yêu sách của các giáo
phái? Làm sao thực hiện được một quân đội quốc gia thống nhứt và hùng mạnh để bảo
vệ Miền Nam?
Muốn trả lời hữu ích các câu hỏi trên đây, hãy trở lại giai đoạn hỗn độn cuối
1954 và đầu 1955 ở Miền Nam.
Trước khi xảy ra những cuộc tấn công quân sự, đã có nhiều phiên hội nghị trao đổi
ý kiến giữa chánh phủ của Thủ tướng Ngô Đình Diệm và đại diện các lực lượng võ
trang trong Mặt trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia. Và trước khi Mặt Trận này
chuyển sáng giai đoạn đấu tranh quyết liệt, hai đoàn thể Cao Đài và Phật Giáo
Hòa Hảo, đã một lần chấp nhận hợp tác với ông Ngô Đình Diệm, cử nhiều đại diện
tham gia nội các Ngô Đình Diệm ra đời tháng 9-1954. Trong giai đoạn hợp tác
này, vấn đề sáp nhập các lực lượng võ trang giáo phái vào quân đội quốc gia
cũng đã được thảo luận tích cực, và đạt được sự thỏa thuận, cụ thể hóa bằng các
nghị định ban hành bởi Thủ tướng Ngô Đình Diệm tháng 11-1954. (Nghị định
1025/QP và 1026/QP quy định các thể thức thi hành một tiến trình sáp nhập từng
đợt 3000 quân sĩ các đơn vị Phật Giáo Hòa Hảo. Biện pháp này song hành với biện
pháp sáp nhập quân sĩ Cao Đài (nghị định 973/QP).
Như thế, câu hỏi cụ thể là:
— Vì sao các điều thỏa thuận đó đã không được thi hành?
Tại sao lại không đạt được sự dung hòa quan điểm giữa Mặt Trận và Thủ tướng Ngô
Đình Diệm?
Văn kiện mà Thủ tướng đã ký, là kết quả của những trao đổi quan điểm giữa Bộ
tham mưu quân lực Phật Giáo Hòa Hảo và Bộ Quốc phòng lúc đó do ông Hồ Thông
Minh làm bộ trưởng. Nhưng sau đó, nghị định này trở thành ‘’thư chết’’, không
rõ vì lý do nào?
Trong nội các Ngô Đình Diệm thành lập tháng 9-1954 có mặt các đại diện Cao Đài
và Phật Giáo Hòa Hảo như sau:
Cao Đài: T.T. Nguyễn Thành Phương, Quốc vụ khanh
Ô. Phạm Xuân Thái, Tổng trưởng Thông tin
Ô.Nguyễn Mạnh Bảo, Tổng trưởng Xã hội
Ô. Nguyễn Văn Cát, Thứ trưởng Nội vụ
P.G.H.H.: T.T. Trần Văn Soái, Quốc vụ khanh
Ô. Lương Trọng Tường, Tổng trưởng Kinh tế
Ô. Nguyễn Công Hầu, Tổng trưởng Canh nông
Ô. Huỳnh Văn Nhiệm, Bộ trưởng Nội vụ.
Khi ông Ngô Đình Diệm đang lâm vào tình trạng cực kỳ khó khăn lúc mới ở ngoại
quốc về, sự tham gia nội các của hai đoàn thể Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo đã lập
thế quân bình, vượt qua cơn khủng hoảng trầm trọng. Nhưng sau đó, thái độ của
những người chung quanh Thủ tướng đã đầu độc không khí hợp tác, đưa đến tan vỡ.
Về sự trao đổi quan điểm giữa Thủ tướng Ngô Đình Diệm và Mặt Trận Thống Nhứt
Toàn Lực Quốc Gia, phiên họp chiều ngày 25-3-1955 tại dinh Độc Lập được xem là
quan trọng nhứt.
Trong hồi ký của nhân vật Trần Văn Ân, có thuật lại như sau:
Tôi là người miền Nam, có nghe nói từ lâu, từ lúc nhỏ, về các tôn giáo như Bửu
Sơn Kỳ Hương, Phật Thầy Tây An... và sau này lại được biết Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ.
Tôi lại biết rõ tinh thần Phật Giáo của Phật Thầy và cả người tiếp theo, là
tinh thần ái quốc, là bất hợp tác với ngoại bang thống trị, nên tôi đã có thiện
cảm, từ lúc bắt đầu kháng chiến năm 1945. Và lại phát động mạnh kháng Pháp
giành độc lập chính là các đoàn thể tôn giáo, trong đó có cả quân Bình Xuyên. Nếu
sau này có một sự nứt rã hàng ngũ kháng chiến, tôi thấy rõ không phải do các
giáo phái.
Trong sự xung đột giữa các giáo phái và chánh quyền nhà Ngô, tôi xác quyết là
giáo phái không vì giành quyền mà chính vì muốn đoàn kết để đương đầu thời cuộc
sau hiệp định Genève 1954. Tự nhiên có người nghĩ khác, đó là quyền của họ.
Tôi rất tiếc có sự xung đột này xảy ra. Tháng 3 năm 1955, phái đoàn Mặt Trận Thống
Nhất Toàn Lực Quốc Gia, hội kiến Thủ tướng Diệm tại dinh Độc Lập, anh em có nhờ
tôi tham gia phái đoàn, viện lẽ là tôi có quen thân. Trong phái đoàn, tôi không
có tánh cách đại diện. Tôi có ý ngồi bên Thủ tướng, và tôi cố ý thưa: “Chính
tôi dự thảo cơ cấu chánh phủ đoàn kết. Cụ an tâm, chỉ có chín (9) bộ lớn. Kỳ dư
đều là Tổng giám đốc. Tôi đã đề nghị các giáo phái không giữ đến ba bộ. Mấy bộ
quan trọng đều giành cho Cụ sắp xếp. Nay tôi đi theo phái đoàn là vì tôi có biết
Cụ. Sơ đồ cơ cấu chánh quyền có đem theo đây, ở trong tay ông Thành Nam, phát
ngôn viên của Mặt Trận. Cụ chấp nhận nguyên tắc hợp tác là ông Thành Nam trao
cho Cụ...”
Ông Diệm chần chờ. Tôi có thưa thêm mấy lời lịch sử sau đây: “Thưa Cụ, Cụ cho
giáo phái là dơ dáy. Có thể Cụ mới về cai trị. Thưa Cụ, nước mình nhỏ bé đành
phải bắt tay với Mỹ, thật tình bắt tay, nhưng chơi tay đôi với họ là khó lòng lắm.
Nước họ lại nước dân chủ, chánh quyền dễ thay tay. Rủi ngày nào, vì một lẽ gì
đó mà họ buông bỏ ta, thì ta, không có bạn khác, ta sẽ chết như cá lóc bị dập đầu”.
Ông Diệm xiêu lòng. Rồi đột nhiên ông nói: “Để tôi xét lại coi ra sao. Thôi mấy
ông về đi”.
Tôi còn nhớ có nói với ông điều này: “Mấy ông tôn giáo đó, là những người có
tín ngưỡng, mới là người dám hết mình chống Cộng. Trí thức và nhà giàu, hữu sự
họ sẽ chạy trước. Xin Cụ để ý cho. Tôi dám quả quyết với Cụ là tôi dàn xếp được
vấn đề giáo phái. Không khó...”
Trong đoạn hồi ký này, có câu: “Nếu cụ chấp nhận nguyên tắc hợp tác, là ông
Thành Nam phát ngôn viên của phái đoàn, sẽ trao ngay đề nghị của Mặt Trận cho cụ”.
Đề nghị đó nội dung ra sao? Đây là một điểm mà chưa tài liệu nào ghi chép. Lý
do là vì sau khi các lực lượng giáo phái bị đánh tan, Mặt Trận không được tự do
hoạt động, cho nên không có hoàn cảnh và phương tiện để phổ biến các tài liệu
nói trên.
Người viết sách này chính là người cầm trong tay tài liệu đã soạn thảo sẵn của
Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Lực Quốc Gia, đến tham dự phiên họp giữa Mặt Trận và
Thủ Tướng, được cử làm phát ngôn viên chánh thức của phái đoàn, và được giao
nhiệm vụ lấy quyết định tại hội nghị: trao tài liệu cho Thủ tướng hay không
trao, tùy theo diễn tiến và kết quả phiên họp. Nếu hội nghị có không khí tốt,
và nếu nhận thấy Thủ tướng có khuynh hướng hợp tác, thực sự muốn tìm giải pháp
dung hòa, thì trao tài liệu. Ngược lại, nếu nhận thấy lập trường của chánh phủ
vẫn cứng rắn, không đưa đến giải pháp, thì trao tài liệu cũng vô ích.
Tôi đã quyết định không trao tài liệu, vì trong hội nghị, Thủ tướng đã một mực
khẳng định lập trường cứng rắn về vấn đề sáp nhập các lực lượng võ trang giáo
phái. Điều kiện của Thủ tướng là hãy giải giới trước đã, để có một quân đội quốc
gia duy nhứt, để có một uy quyền quốc gia, còn mọi việc khác sẽ bàn sau. Tại
sao Thủ tướng lại khăng khăng với lập trường cố định đó, trong khi tình hình có
thể được giải quyết cách khác, nếu chấp nhận giải pháp thống nhứt quân đội theo
một công thức mất thì giờ hơn, nhưng êm thấm và kết quả tốt đẹp hơn. Tôi đã từng
nghe giới quân đội và các vị cố vấn của Thủ tướng biểu lộ thái độ cứng rắn đó,
và tôi đoán rằng họ bị ảnh hưởng của Tướng Lansdale, ông này lúc đó là cố vấn Mỹ
tin cậy nhứt của Thủ tướng, và có chủ trương rõ rệt: không nhượng bộ các giáo
phái. Chính thái độ của Tướng Lansdale và của các giới cố vấn dân sự và quân sự
của Thủ tướng đã làm cho ông khăng khăng với quan điểm cứng rắn. Cuộc hội nghị
25-3-1955 vì thế mà bất thành, đưa tới những hậu quả lớn lao về sau. Đó là sự
thành công nhứt thời về quân sự năm 1955, đưa đến sự thất bại trầm trọng về sau
của chế độ năm 1963, và kéo theo sự sụp đổ Miền Nam năm 1975.
Nội dung các đề nghị của phía Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Lực Quốc Gia, có thể được
tóm tắt như sau (về việc sáp nhập các lực lượng võ trang giáo phái vào quân đội
quốc gia).
Trước khi cất bước đi lưu vong chín năm hải ngoại, người viết sách này đã có
nhiều dịp gặp ông Thủ tướng Ngô Đình Diệm, và đặc biệt là ba lần ngồi thảo luận
với ông về vấn đề quân lực các giáo phái Miền Nam. Lúc đó tôi có cảm nghĩ rằng
cá nhân tôi được sự lưu ý đặc biệt của Thủ tướng.
Trong thời gian thương thảo giữa Chánh phủ và Phật giáo Hòa Hảo, tôi là người
được đoàn thể tôi Ủy nhiệm công việc tiếp xúc và thương thảo. Lúc đó phía quý vị
chức sắc và lãnh tụ quân sự Cao Đài cũng có cảm tình đặc biệt với tôi, Đức Hộ
Pháp Phạm Công Tắc thường tỏ thái độ tin cậy tôi, và tham khảo ý kiến tôi trong
những trường hợp khó khăn của Mặt Trận mà Ngài là Chủ tịch. Một bữa, tôi được
Thủ tướng Ngô Đình Diệm tiếp tại dinh Độc Lập lúc 10 giờ sáng. Khi ấy, văn
phòng Thủ tướng vừa mới dời từ dinh Gia Long qua dinh Norodom, cho nên văn
phòng trên lầu của Thủ tướng chưa hoàn tất. Thủ tướng ngồi tại một văn phòng tạm
ở giữa dinh, từng trệt, và tiếp tôi tại đó, thảo luận đặc biệt vấn đề quân lực
giáo phái. Đây là lần thảo luận thứ nhì về đề tài đó. Cuộc thảo luận kéo dài
cho đến quá trưa và vẫn chưa kết thúc. Thủ tướng hút điếu thuốc này sang điếu
khác, ngón tay troœ luôn luôn đập nhẹ trên mình điếu thuốc cháy dở chừng. Ông
nói nhỏ nhẹ, không bao giờ lớn tiếng hay tỏ veœ khó chịu với tôi, dù ý kiến
xung khắc. Tôi nhìn đồng hồ thấy đã 12 giờ 30 và nhiều lần thấy ông Ngô Đình
Nhu tới lui như nóng ruột hay có điều chi muốn nói với Thủ tướng. Khi có người
ra nói nhỏ vào tai Thủ tướng, thì ông đứng dậy và bảo tôi rằng “Tiện bữa, mời
ông qua dùng cơm trưa với tôi và nói chuyện tiếp”.
Tôi hơi ngạc nhiên trước cử chỉ tự nhiên và thân mật của Thủ tướng đối với tôi,
và không từ chối. Bước tới một chút là phòng ăn dựng tạm bên cạnh, chưa có gì
được gọi là một phòng ăn của một Thủ tướng. Tôi được mời ngồi ngang mặt Thủ tướng.
Chỉ có canh rau, tôm nhỏ rim, thịt kho hay cá kho, tôi nhớ không rõ, trứng
tráng hay đậu huœ. Không có loại rượu nào. Tôi không ngạc nhiên về sự thanh đạm
của bữa ăn, vì tôi cũng thường ăn uống thanh đạm như thế. Nhưng tôi hơi ngạc
nhiên vì một Thủ tướng mà cũng ăn uống thanh đạm, điều này cũng tạo cho tôi sự
cảm mến đối với ông.
Trong bữa cơm, câu chuyện “giáo phái” tạm ngừng. Thủ tướng hỏi tôi về đời tư của
tôi, như tại sao tôi là người Bắc mà lại theo đạo Hòa Hảo ở tận trong Nam, và
gia thế ra sao, học hành thế nào? Ông muốn biết thêm về cá nhân tôi. Khi tôi
nói rõ vì sao tôi quy y đạo Phật Giáo Hòa Hảo, Thủ tướng có veœ suy nghĩ gục gặc
đầu mà nói: “Kỳ nhỉ”.
Tôi nói để Thủ tướng biết rằng gia đình dòng họ tôi vào Nam đã hai đời, lập
nghiệp tại một làng trên sông Tiền Giang, tỉnh Long Xuyên, cho nên khi Đức Huỳnh
Giáo Chủ giảng đạo, chúng tôi thấy dân cùng làng ruœ theo Đạo, chúng tôi cũng đến
quan sát, và sau khi đã cảm nhận đây là giáo lý thích hợp, cả gia đình đều quy
y theo đạo Phật Giáo Hòa Hảo.
Cuộc thảo luận tiếp diễn thêm một giờ nữa sau bữa cơm, nhưng không đi đến kết
luận nào. Tuy nhiên, tôi đã trình bày đầy đủ với Thủ tướng, về quan điểm của
phía Phật Giáo Hòa Hảo, và cũng là quan điểm chung của Cao Đài, về phương thức
sáp nhập các quân lực giáo phái vào quân đội quốc gia.
Quan điểm phía Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo được lập luận và đề nghị thực hiện
như sau:
Lập luận:
1. Hoàn toàn đồng ý nguyên tắc căn bản: một quân đội quốc gia duy nhứt; chấm dứt
tình trạng quân lực các giáo phái.
2. Quan niệm rằng đây là một vấn đề chung có tầm vóc và ảnh hưởng đến tương lai
quốc gia, cho nên giải pháp thực hiện không thể đơn phương, mà phải được thỏa
thuận chung, để đạt mục tiêu chung.
3. Vì lực lượng Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo có nguồn gốc tôn giáo và chánh trị,
có sẵn từ lâu các cơ cấu tổ chức, cho nên việc dẹp bỏ cơ cấu đó cần có một kế
hoạch thỏa thuận trước khi thi hành.
4. Tính chất phức tạp và tế nhị của vấn đề này đòi hỏi hành động thận trọng, đối
xưœ thành thật, tránh thái độ và lời nói có thể tạo ngộ nhận, va chạm tự ái hay
mặc cảm tôn giáo.
Về phần kế hoạch, hai tổ chức Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo đề nghị những nét lớn
sau đây:
1. Giai đoạn đầu, thực hiện quốc gia hóa 3.000 chiến sĩ Cao Đài, 3.000 chiến sĩ
Hòa Hảo theo tinh thần các bản nghị định 973 và 1025/QP mà Thủ tướng đã ban
hành ngày 3-11-54.
2. Đồng thời thi hành chiến dịch giải thích, giúp các chiến sĩ giáo phái hiểu
rõ về vấn đề quốc gia hóa, để họ tự ý lựa chọn hoặc tự nguyện gia nhập quân đội
quốc gia, hoặc tự ý xin giải ngũ về đời sống dân sự.
3. Các thành phần xin giải ngũ sẽ được chánh phủ tỏ lòng biết ơn về quá trình
chiến đấu, bằng những biện pháp giống như xưa kia triều đình đãi ngộ các quân
sĩ đã chiến đấu trong thời loạn: cấp bằng tưởng lệ hữu công, và được hưởng một
ít quyền lợi vật chất như cấp phát công điền để mưu sinh, cấp tín dụng nông
nghiệp hay tiểu thương, trong khuôn khổ các chương trình phát triển kinh tế quốc
gia.
Các biện pháp này, nếu được nghiên cứu và thực hiện, sẽ có hiệu lực tâm lý rất
tốt, chứng tỏ chánh phủ không quên công lao các chiến sĩ, cho họ được hưởng sự
tưởng lệ tinh thần, và phương tiện tối thiểu để trở về đời sống dân sự. Đồng thời,
nếu lồng vào các chương trình tái thiết kinh tế hậu chiến, các biện pháp này
còn đáp ứng phần nào nhu cầu thăng tiến xã hội, cải cách ruộng đất và phát triển
nông nghiệp.
Chúng tôi nghĩ rằng các chiến sĩ Phật Giáo Hòa Hảo và Cao Đài, phần lớn xuất
thân từ giai tầng nông dân, không cao vọng, chỉ mong có được mảnh đất để canh
tác, xây dựng mái nhà thân yêu và kiến tạo hạnh phúc gia đình... Lớp người mộc
mạc ấy sẽ cảm thấy hãnh diện khi được “chánh phủ biết ơn” một cách cụ thể: mảnh
bằng tưởng lệ treo trong nhà để hãnh diện với làng xóm, và một ít quyền lợi vật
chất. Niềm hãnh diện này, ngược lại, nếu mất đi hay bị bỏ quên, sẽ tạo phản
ứng bất mãn, chống đối rất bất lợi cho mối tương quan giữa chánh quyền và dân
chúng.
Các biện pháp cấp đất, cấp tín dụng, trong thực tế cũng không tạo các tổn phí
quá đáng cho ngân sách quốc gia, vì cũng nằm trong phạm vi ngân sách cải cách
điền địa, tín dụng nông nghiệp, trong kế hoạch phát triển kinh tế và xã hội. Sự
giải ngũ binh sĩ đương nhiên tạo ra giảm chi quốc phòng, chỉ cần di chuyển phần
ngân sách của biện pháp nói trên, chớ thật ra không tạo thêm chi phí mới. Hơn
thế, bất cứ quốc gia nào thời hậu chiến, chánh phủ cũng phải giúp phương tiện
cho nông dân khai thác, canh tác đất đai, để tăng gia Sản lượng quốc gia trong
khu vực nông nghiệp, đồng thời thăng tiến xã hội cho giới nông dân và cần lao.
Về biện pháp này, tôi đã cố gắng giải thích trực tiếp với Thủ tướng Ngô Đình Diệm
rằng đó không phải chỉ là lý thuyết sách vở, mà còn thêm kinh nghiệm sống của
chính tôi. Tôi đã sống nhiều năm tại nông thôn miền Nam, trực tiếp chung đụng với
người nông dân, tôi hiểu được tâm hồn của họ, tâm lý của họ, nguyện vọng của họ,
cả nếp suy nghĩ và phản ứng của họ. Đặc biệt các nông dân tín đồ Phật Giáo Hòa
Hảo, các đồng đạo của tôi, nhờ tín ngưỡng Phật đạo, họ hiểu rằng kiếp sống này
là giả tạm, sự tích lũy tài Sản không phải là cứu cánh cuộc sống. Cho nên nguyện
vọng của họ thật là giản dị, chỉ cần chánh phủ đáp ứng đúng tâm lý và ước vọng
giản dị đó, mọi việc sẽ trở nên dễ dàng.
Tôi cũng giải thích với Thủ tướng về đời sống hàng ngày của các chiến sĩ nông
dân này, và yêu cầu Thủ tướng đừng có ý nghĩ sai lầm rằng tất cả quân lực Phật
Giáo Hòa Hảo đều là “phường cướp bóc”. Một thiểu số có thể có làm điều bất
chính, nhưng đại đa số chiến sĩ Phật Giáo Hòa Hảo rất đáng thương, rất nghèo khổ
mà vẫn chiến đấu cang cường cho lý tưởng của mình.
Tôi viện dẫn nhu cầu phát triển nông nghiệp phải đi đôi với nhu cầu thăng tiến
xã hội của giới nông dân, cho nên các biện pháp cải cách ruộng đất và tín dụng
nông nghiệp phải được thi hành càng sớm càng tốt. Bởi vì tôi đã chứng kiến cảnh
cùng cực của người tá điền nghèo đi mướn đất của chủ điền để canh tác, và vay nợ
với lãi suất 100 đến 200 phần trăm một năm. Các biện pháp tinh thần (tưởng lệ)
và vật chất (đất cày, tín dụng) đáp ứng một cách chính xác nguyện vọng giản dị
của người chiến sĩ nông dân Phật Giáo Hòa Hảo và gia đình anh ta. Đồng thời
cũng đáp ứng nhu cầu phát triển quốc gia về kinh tế và xã hội.
Đó là đối với những người xin giải ngũ. Còn những binh sĩ nào muốn tiếp tục phục
vụ trong quân đội quốc gia, họ được hưởng thâm niên quân vụ trên những năm chiến
đấu. Cấp sĩ quan Phật Giáo Hòa Hảo quốc gia hóa sẽ phải đi thụ huấn tại quân
trường để cấp bậc có giá trị.
Tuy nhiên, điều quan trọng để thành công là cần phải có một thời kỳ chuyển tiếp
để tránh ngộ nhận và va chạm. Sự nghiên cứu của chúng tôi lúc đó cho thấy rằng
nếu trộn lộn ngay các binh sĩ Phật Giáo Hòa Hảo vào các đơn vị quân đội quốc
gia, sẽ không thể tránh đụng chạm và hiểu lầm, bởi mặc cảm có sẵn của đôi
bên. Nếu xảy ra tình trạng đó, sẽ có hậu quả rất tai hại về tinh thần
đoàn kết trong quân ngũ, cũng như về hiệu năng chiến đấu. Đó là một thực tế rất
phức tạp, đòi hỏi biện pháp đặc biệt và thích nghi để khắc phục. Dường như một
triết gia có nói đại ý rằng: Chưa hòa hợp tinh thần với nhau, mà đã đem võ khí
đến ở chung với nhau, thì sẽ bắn giết nhau dễ dàng...
Cho nên thời kỳ chuyển tiếp rất cần thiết để biện pháp thành tựu. Nghị định
1025 và 1026 ấn định các biện pháp đặc biệt để quốc gia hóa đợt đầu 3.000 binh
sĩ Phật Giáo Hòa Hảo, vẫn cho phép đơn vị này được giữ một vài đặc điểm riêng
biệt, bởi vì chưa thể thực hiện một sự trộn lộn toàn vẹn ngay được. Cho nên nghị
định nói rằng thiết lập tạm thời một bộ phận đặc biệt trong quân đội quốc gia,
danh từ Pháp ngữ gọi là “Phalange Hoa-Hao des Forces Armées Vietnamiennes” dịch
là “bộ phận Hòa Hảo trong quân đội Việt Nam”.
Thật ra, đó chỉ là danh nghĩa và hình thức. Các điều khoaœn của nghị định
1025/QP và 1026/QP đã nói rõ như sau:
— Bảng cấp số theo biên chế tổ chức quân đội Việt Nam
— Nghị định đồng hóa và bổ nhậm ban hành bởi chánh phủ
— Cờ Việt Nam nền vàng ba sọc đoœ là lá cờ duy nhứt (không còn cờ Phật Giáo Hòa
Hảo nữa), nhưng có huy hiệu Phật Giáo Hòa Hảo gắn trên góc.
— Quân phục quân đội quốc gia Việt Nam, chỉ khác là binh sĩ còn mang huy hiệu
Phật Giáo Hòa Hảo trên ngực, và đội ca lô màu dà, như màu mũ của các quân chủng
khác nhau.
— Các đơn vị Phật Giáo Hòa Hảo quốc gia hóa đặt dưới quyền điều khiển hành quân
của Bộ tư lịnh hành quân quân đội Việt Nam
— Thiết lập một văn phòng đặc biệt tại Bộ Quốc phòng và một cơ quan của Bộ Tổng
tham mưu để hướng dẫn sanh hoạt theo đời sống quân đội Việt Nam về mọi mặt: tổ
chức, quản trị, huấn luyện, và có nhiệm vụ cố vấn, kiểm soát mọi mặt.
— Các biện pháp thanh tra của quân đội Việt Nam được áp dụng toàn bộ.
— Các cấp chỉ huy sẽ được đào luyện tại trường cán bộ Cái Vồn và Bình Mỹ, trường
sĩ quan Thủ Đức và Đà Lạt
— Các quân trường Cái Vồn và Bình Mỹ cũng như các cơ cấu của bộ phận Phật Giáo
Hòa Hảo sẽ được giải tán khi xét không cần thiết nữa
— Võ khí đạn dược của các đơn vị Phật Giáo Hòa Hảo phải giao nạp quân đội quốc
gia, để thay thế bằng trang bị theo biên chế quân đội quốc gia Việt Nam.
Áp dụng các nghị định này, cái nhìn bi quan sẽ cho là chưa phải sáp nhập toàn vẹn,
vẫn còn là một bộ phận riêng.
Cái nhìn lạc quan cho rằng tuy còn giữ một số đặc điểm riêng, bộ phận riêng,
nhưng do quân đội quốc gia cố vấn, kiểm soát, bị chi phối bởi kỷ luật và điều
hành theo quy chế quân đội quốc gia. Giống như một đơn vị hay một binh chủng đặc
biệt. Quyền bổ nhậm do chánh phủ, và các bộ phận mang đặc tánh Phật Giáo Hòa Hảo
từ nay đều đặt trong hệ thống quân đội quốc gia, để rồi sẽ bị giải tán khi
không cần thiết nữa.
Với tình trạng phức tạp lúc đó, với các khó khăn tâm lý, nghi ngờ, e ngại, mặc
cảm, thành kiến... một sự trộn lẫn lập tức sẽ không có kết quả. Phải đi qua một
thời kỳ chuyển tiếp, chẳng khác nào đem người dân từ đồng ruộng về đô thị, nhứt
định phải một thời gian để tập cho quen cảnh sống mới, trước khi thuần thục và
không có phản ứng ngược chiều và nghịch lý.
Khi quân lực Trình Minh Thế về hợp tác với Chánh phủ Ngô Đình Diệm (2-1955)
tình trạng cũng tương tự như tinh thần bản nghị định 1025-1026/QP. Quân đội
Liên minh vẫn là một bộ phận riêng biệt đặt dưới hệ thống chỉ huy trực tiếp của
các sĩ quan Liên minh, và Tướng Trịnh Minh Thế vẫn là vị tư lịnh cao nhứt của bộ
phận đặc biệt này, mặc dù tất cả đã quốc gia hóa, và mang sắc phục quân đội quốc
gia Việt Nam. Bộ Tổng tham mưu không trực tiếp điều động các đơn vị Liên minh,
mà phải qua vị Tướng Tư lịnh Trình Minh Thế. Các binh sĩ Liên minh cũng chỉ
tuân hành mạng lịnh của Tướng Thế và các cấp sĩ quan dưới quyền ông, mặc dù họ
đã trở thành binh sĩ quân đội quốc gia.
Tình trạng đó là một thực tế không thể cưỡng ép lập tức và toàn vẹn. Phải có một
thời kỳ chuyển tiếp.
Trong thời kỳ chuyển tiếp này, binh sĩ gốc giáo phái làm quen dần với nếp sống
trong khung cảnh sinh hoạt của quân đội quốc gia, trong khuôn khổ một quân đội
chánh qui, để rồi sẽ tự biến đổi để thích nghi hoàn cảnh mới. Với thời gian, chắc
chắn họ sẽ trở thành người chiến sĩ quân đội quốc gia trọn vẹn, và đó là một tình
trạng quốc gia hóa toàn vẹn.
Cũng trong thời kỳ chuyển tiếp đó, hẳn sẽ có một số binh sĩ thay đổi ý hướng,
đó là những thành phần không có khả năng thích nghi hoàn cảnh và khuôn khổ mới.
Họ sẽ tự chọn lấy con đường giải ngũ, trở về đời sống dân sự. Nhưng đây là do ý
định của họ tự do lựa chọn, khác hẳn với lối giải quyết loại bỏ khỏi hàng ngũ
quân đội, với các hậu quả tâm lý bất lợi. Những phần tử yêu thích quân ngũ sẽ
tiếp tục và sẽ được đào tạo, tùy theo khả năng và khuynh hướng, mà trở thành
quân nhân của quân đội Việt Nam 100%.
Tiến trình quốc gia hóa hay sáp nhập chậm này, có tác dụng tránh các biến chứng
phức tạp của cuộc sống chung đụng chạm cọ xát giữa những người từ các nguồn gốc
tôn giáo và chân trời dị biệt, để công cuộc quốc gia hóa được thực hiện êm ái
và thành công tốt đẹp. Cố nhiên là phải mất thì giờ, tiến chậm hơn là một
phương thức quốc gia hóa toàn vẹn lập tức. Thời gian được đề nghị với Thủ tướng
lúc đó là một năm hay nhiều lắm là 18 tháng, để hoàn tất kế hoạch. Lúc đó là cuối
năm 1954, nếu thực hiện theo tiến trình tiệm tiến đó, đến cuối năm 1955 hay trễ
là giữa năm 1956, kế hoạch sẽ hoàn tất và thành tựu.
7 - Mặt
Trận Thống Nhứt Toàn Lực Quốc Gia
Nhưng Thủ
tướng Ngô Đình Diệm đã không chấp nhận tiến trình mà ông cho là mất thì giờ.
Tôi cho rằng ông muốn củng cố uy quyền quốc gia càng sớm càng tốt, và tôi cảm
thấy ông bị ảnh hưởng rõ rệt và mạnh mẽ của áp lực hiệp thương tuyển cử 7-1956
đề ra trong hiệp định Giơ-neo 1954. Theo phụ bản của hiệp định này, hai miền
Nam, Bắc Việt Nam sẽ mở hiệp thương tiến tới tổng tuyển cử, hai năm sau ngày
ngưng bắn (20-7-54) để thống nhứt đất nước. Qua những câu chuyện trao đổi với
quý vị trong chánh phủ và với Thủ tướng Ngô Đình Diệm, cũng như với các giới
chánh trị bên ngoài, tôi đều nhận thấy mối ưu tư chung đối với kỳ hạn hiệp
thương tuyển cử 1956. Rất ít người lúc đó đưa ra ý nghĩ táo bạo và có giá trị
chiến lược là: bất chấp hiệp định Giơ neo, bác bỏ hiệp thương tuyển cử. Thật
ra, thái độ bất chấp tổng tuyển cử là một thái độ hợp tình hợp lý theo quan điểm
của Miền Nam, bởi vì Miền Nam đã không ký bản hiệp định Giơ-neo, không thể bị
ràng buộc, trên căn bản pháp lý, vào điều kiện hiệp thương và tuyển cử. Sự thật,
Miền Bắc tự nhận thấy rằng chính họ cũng chẳng hăng hái gì đối với hiệp thương
tuyển cử 1956, bởi lý do rõ ràng là họ chưa sẵn sàng và chưa tin rằng tổng tuyển
cử đem thắng lợi chắc ăn cho họ.
Trong tình huống chung đó, vấn đề thời hạn 1956 rất dễ dàng được dời lại, không
cần phải thực hiện năm 1956, và không đến đỗi trở thành một áp lực ám ảnh chánh
trường Miền Nam như thế. Việc chối bỏ tổng tuyển cử còn là một phương thức mà
Miền Nam vẫn có thể đơn phương thực hiện, như đã xảy ra.
Tuy nhiên ở thời điểm 1954, áp lực kỳ hạn 1956 là một lý do làm cho Thủ tướng
Ngô Đình Diệm không chấp nhận mất thì giờ trong việc thống nhất quân đội. Ngoài
ra, cũng còn phải kể các lý do khác tạo thành thái độ quyết liệt bác bỏ tiến
trình sáp nhập từ từ đề nghị bởi các giáo phái: các vị cố vấn của Thủ tướng,
các sĩ quan cao cấp trong Bộ Tổng tham mưu, và Tướng Lansdale sau này. Những
thành phần này sẵn thành kiến đối với quân đội giáo phái, và không nhìn vấn đề
đúng tầm quan trọng lâu dài và chánh trị của nó, lại chủ quan tự tin ở ưu thế
chánh quyền, cho nên đã bác bỏ kế hoạch của các giáo phái. Vì thế, chỉ còn giải
pháp võ lực, vì phía các giáo phái cũng không chấp nhận thái độ cứng rắn của
phía chánh quyền, mà họ cho là phi lý, ngoan cố, có hậu ý.
Và việc phải đến, đã đến: súng nổ đầu tiên tại Sàigòn đánh dẹp tổ chức võ trang
Bình Xuyên, rồi sau đó đánh dẹp Phật Giáo Hòa Hảo ở miền Tây.
Riêng phần cá nhân tôi, sau cuộc thảo luận thứ nhì với Thủ tướng Ngô Đình Diệm,
tôi không còn dịp nào được gặp riêng ông nữa. Lần gặp thứ ba, là trong cuộc hội
kiến giữa Thủ tướng và phái đoàn Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Lực Quốc Gia, tại
dinh Độc Lập, mà tôi là phát ngôn viên của phái đoàn, với nhiệm vụ lấy quyết định
về việc trao hay không trao đề nghị cho Thủ tướng. Tôi đã quyết định không
trao, và bản tài liệu ấy cũng không hề được công bố sau này.
Tôi đã không trao, bởi vì những điều ghi trong bản tài liệu đó, tôi đã có dịp
trực tiếp trình bày với Thủ tướng rồi, và ông đã bác bỏ rồi, bây giờ có trao
thêm tài liệu cũng không thể làm ông thay đổi thái độ về vấn đề này. Trước khi
phái đoàn khởi hành đến dinh Độc Lập, tôi vẫn còn nuôi hy vọng, tuy mong manh, rằng
vì tình thế khó khăn và không khí căng thẳng tột độ lúc đó, Thủ tướng sẽ điều
chỉnh thái độ cho mềm dẻo hơn, trong trường hợp này, tôi sẽ rất vui mừng trao
toàn bộ tập tài liệu và đề án của Mặt Trận cho Thủ tướng.
Tập tài liệu này, ngoài vấn đề sáp nhập các lực lượng võ trang giáo phái vào
quân đội quốc gia, còn bao gồm những đề nghị cải tổ cơ cấu chính quyền, chớ
không chỉ riêng vấn đề cải tổ nội các. Nhưng vấn đề các lực lượng giáo phái đã
không thỏa thuận được, tất nhiên các vấn đề khác cũng không có khung cảnh để giải
quyết. Tôi còn nhớ đề nghị của Mặt Trận về cải tổ cơ cấu gồm có sự thành lập một
Hội Đồng Quốc Chánh có thẩm quyền, bên cạnh Thủ tướng. Mục tiêu là tránh độc
tài độc tôn, tăng gia hiệu lực và thiết lập chánh sách quốc gia, đồng thời giải
quyết vấn đề các giáo phái và đảng phái. Đại diện các tổ chức có quần chúng sẽ
được mời tham gia Hội Đồng, chớ không nhứt thiết phải tham gia nội các. Nội các
được quan niệm như một đội ngũ gồm các thành phần có tiêu chuẩn tài năng hơn là
tư cách đại diện, để phối hợp chặt chẽ mà thực hiện chánh sách quốc gia đề ra bởi
Hội Đồng Quốc Chánh. Nội các không thể được quan niệm như một môi trường để
chia phần đại diện qua sự phân phối các bộ, để rồi hiệu năng không đạt, lại còn
“trâu trắng trâu đen” với nhau. Tôi còn nhớ có một điểm khá quan trọng trong đề
nghị của Mặt Trận, là yêu cầu Thủ tướng đưa vợ chồng ông Ngô Đình Nhu khỏi các
sanh hoạt chánh quyền. Đó là một quan điểm cứng rắn của phía Mặt Trận, và có lẽ
đó cũng là một trong nhiều lý do làm cho Thủ tướng không chấp thuận.
Nếu ai đã từng sống trong cuộc, của tình hình lúc đó, mới hiểu được đúng lý do
tại sao Mặt Trận lại đặt vấn đề vợ chồng ông Nhu như vậy. Rồi về sau này, khi
thái độ và đường lối của ông Ngô Đình Nhu và bà Trần Lệ Xuân được tự do thể hiện
qua chín năm cai trị Miền Nam, thì hầu hết mọi giới đều cho rằng những tai hại
gây cho đất nước và chế độ, một phần quan trọng do vợ chồng ông.
Quan điểm căn bản của Thủ tướng lúc đó là: “Các quân lực giáo phái phải sáp nhập
quân đội quốc gia trước đã. Chấp nhận sự thống nhứt quân đội quốc gia rồi, mới
bàn tới chánh trị”. (*)
Phía Mặt Trận có quan điểm là giải quyết toàn bộ các vấn đề một lần, chánh trị
và quân đội, bởi vì, đối với các giáo phái, đây là một vấn đề gồm hai khía cạnh,
không thể tách làm hai vấn đề.
Nói thêm ít hàng về cuộc hội kiến đó.
Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Lực Quốc Gia do Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc làm Chủ tịch,
gồm các thành phần: Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, Bình Xuyên, Việt Nam Dân Chủ Xã
Hội Đảng và Cao Đài Liên Minh (Tướng Trình Minh Thế). Ngày 21-3-1955 Mặt trận gởi
đến Thủ tướng một văn thơ, mà dư luận gọi là tối hậu thư, yêu sách Thủ tướng cải
tổ chánh quyền. Thủ tướng yêu cầu Mặt Trận gởi đại diện đến dinh Độc Lập để
trao đổi quan điểm. Phái đoàn đi phó hội ngày 25-3-1955 gồm có Ngài Bảo thế Lê
Thiện Phước (Cao Đài), ông Trần Văn Ân (nhân sĩ Cố vấn Mặt Trận Thống Nhất Toàn
Lực Quốc Gia), Tướng Lâm Thành Nguyên (quân đội Phật Giáo Hòa Hảo), Đại tá Trần
Thái Huệ (quân đội Cao Đài), ông Nhị Lang (Liên Minh) và tôi là Thành Nam (Phật
Giáo Hòa Hảo), lúc đó Tướng Trình Minh Thế vẫn còn là một thành viên Ban Chấp
Hành Mặt Trận, mặc dù ông đang là sĩ quan quân đội quốc gia từ ngày về hợp tác
(18-2-1955). Do đó, khi ký tên tham gia Mặt Trận, Tướng Thế có ghi thêm một câu
ở dưới chữ ký của mình rằng: ‘’Tôi là thiếu tướng quân đội quốc gia, cố nhiên
không có quyền làm chánh trị, nhưng vì nhận rõ nguy cơ chung của dân tộc, tôi
tán thành bản quyết nghị này”. (*)
Đúng như lời tường thuật của ông Nhị Lang trong cuốn sách “Phong Trào Kháng Chiến
Trình Minh Thế”, trước khi phái đoàn lên đường, Tướng Lê Văn Viễn có cho bố trí
hỏa lực trọng pháo và quân đội, trong tư thế sẵn sàng nổ súng vào dinh Độc Lập,
nếu chánh phủ bắt giữ phái đoàn. Như thế đủ thấy mức độ căng thẳng tột độ của
tình hình.
Nhưng có hai điều mà tác giả Nhị Lang đã thuật không đúng, có lẽ vì lâu quá
quên đi, đó là điều ông nói rằng Tướng Lâm Thành Nguyên trao tối hậu thư cho Thủ
tướng, làm cho Thủ tướng căm giận. Bản văn mà Tướng Lâm Thành Nguyên trao cho
Thủ tướng là bản Ủy nhiệm thơ chánh thức của Mặt Trận, do Đức Hộ pháp nhơn danh
Chủ tịch ký tên, Ủy nhiệm các vị có tên trong đó được có thẩm quyền thay mặt
cho Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Lực Quốc Gia để thảo luận và quyết định với Thủ tướng.
Tôi còn nhớ rõ chi tiết về lý do phải có Ủy nhiệm thư. Vì không khí đấu tranh
lúc đó, hai bên đều không tin nhau, giữ thế với nhau, cho nên Ban Chấp hành Mặt
Trận, sau khi thảo luận, thấy cần có một bản Ủy nhiệm thư chánh thức, đề phòng
trường hợp Thủ tướng có thể không chấp nhận tư cách đại diện của phái đoàn, và
đổ lỗi cho Mặt Trận không nghiêm chỉnh, đã gởi những người vô thẩm quyền đến, rồi
lấy cớ đó mà không tiếp hay không thảo luận với phái đoàn. Hơn thế, trong thư mời
phái đoàn, Thủ tướng có nhấn mạnh: một phái đoàn có thẩm quyền.
Điều không xác thực thứ hai là tác giả Nhị Lang viết rằng “Đức Quốc trưởng hứa
chắc là sẽ chọn anh Baœy (Lê Văn Viễn) làm Thủ tướng chính phủ tương lai” (*).
Không hề bao giờ có chuyện Tướng Lê Văn Viễn làm Thủ tướng chánh phủ. Phía
chánh phủ Ngô Đình Diệm đã đưa ra luận điệu này để đánh hạ giá trị của Mặt Trận,
tạo ra mối lo ngại cho dân chúng “nếu Bình Xuyên thắng, nước ta sẽ có một ông
Thủ tướng Lê Văn Viễn” thì thật là bất lợi. Sự thật về nguồn gốc tin tức “Thủ
tướng Lê Văn Viễn” là như thế. Phía Mặt Trận đâu có ấu trĩ đến đỗi không hiểu
được hậu quả của việc đưa Tướng Lê Văn Viễn làm Thủ tướng. Thật ra, cá nhân Tướng
Lê Văn Viễn cũng không bao giờ nuôi cao vọng làm Thủ tướng, vì ông cũng đủ trí
để tự hiểu khả năng mình không thích hợp với chức vụ chánh trị đó.
Tôi còn nhớ lúc đó Mặt Trận không hề nghĩ đến việc đưa một người trong Mặt Trận
ra làm Thủ tướng, bởi vì như thế sẽ làm mất chánh nghĩa: tranh đấu giành cái thế
Thủ tướng. Yêu sách căn bản của Mặt Trận lúc đó là cải tổ cơ cấu quốc gia ở cấp
trung ương để bộ máy chánh quyền hữu hiệu, có đại diện tính, không bị cá nhân
thao túng, nhứt là cá nhân ông Ngô Đình Nhu. Chớ Mặt Trận không chủ trương
giành ghế Thủ tướng của ông Ngô Đình Diệm. Nếu ông Diệm không còn làm Thủ tướng
nữa, thì cũng không phải người của Mặt trận ra làm Thủ tướng, mà Mặt Trận có chủ
trương rõ rệt giao nhiệm vụ đó cho một nhân sĩ Miền Nam độc lập, để trấn an
nhân tâm và quân đội, cứu vãn tình hình. Trái lại, Mặt trận cũng ý thức rằng, nếu
Mặt Trận nắm lấy chánh quyền, Mặt Trận sẽ mất chánh nghĩa và lòng dân lòng quân
không được yêyên, bởi lo ngại cái thế thượng phong của Mặt Trận sẽ bao trùm lên
sinh hoạt quốc gia. Tôi còn nhớ lúc đó Bác sĩ Hồ Văn Nhựt được Mặt Trận nhắc nhở
đến trong cuộc thảo luận về chức vụ Thủ tướng tương lai.
Những nhân vật có tầm vóc chánh trị trong Mặt Trận lúc đó là ông Trần Văn Ân, Hồ
Hữu Tường. Trước đó, còn có quý ông Nguyễn Đức Quỳnh, Bác sĩ Lê Kiểu. Đây là
các nhân sĩ không đảng phái. Ngoài ra, đại diện các tổ chức trong Mặt Trận đều
là những người có kinh nghiệm đấu tranh, và biết nhìn cuộc diện, cho nên đã thảo
luận rất sâu rộng vấn đề này, trước khi đi đến quyết định nguyên tắc là không
đưa người của Mặt Trận làm Thủ tướng. Do đó không hề có việc ông Lê Văn Viễn sẽ
làm Thủ tướng.
Đó là những điều quan trọng trong đường lối chủ trương lúc đó của Mặt Trận Thống
Nhứt Toàn Lực Quốc Gia, mà từ sau khi Mặt Trận tan vỡ năm 1955, không có cơ hội
nói lên, cho nên công luận trong nước và thế giới chỉ được nghe một chiều dư luận
của phía chiến thắng, qua bộ máy tuyên truyền của Chánh phủ Ngô Đình Diệm.
Qua bộ máy tuyên truyền đó, và với sự a-dua của báo chí lúc đó, Mặt Trận Thống
Nhất Toàn Lực Quốc Gia bị đồng hóa với các hành động cờ bạc, mãi dâm, cướp bóc,
ngoan cố, bè phái, tham vọng cá nhân... đủ các tội xấu xa trong xã hội.
Sau cuộc hội kiến không kết quả nói trên, riêng phần tôi rất đỗi bi quan, vì
tôi biết trước rằng nội chiến chắc chắn phải xảy ra, không cách gì ngăn cản được.
Bởi vì ngoài thái độ cứng rắn của Thủ tướng Ngô Đình Diệm, tôi còn biết được
thái độ của Tòa đại sứ Huê Kỳ tại Sàigòn lúc đó, là cương quyết đứng về phía
ông Ngô Đình Diệm. Lúc đầu, Đại sứ Lawton Collins không nhiệt tình ủng hộ ông
Diệm, nhưng quan điểm của ông đã phải nhường cho chủ trương của Đại tá tình báo
Lansdale, ông này đóng vai cố vấn thân tín của Thủ tướng Ngô Đình Diệm, lại
cương quyết không chấp nhận bất cứ nhượng bộ nào đối với Mặt Trận. Chính
Lansdale đích thân vận động với Hoa Thịnh Đốn để quan điểm của mình được chấp
nhận, và cũng chính ông vận động với phía ông Ngô Đình Diệm để tạo niềm tin vào
một giải pháp võ lực, và cũng chính ông đã đi vận động các sĩ quan cao cấp quân
đội quốc gia để thực hiện kế hoạch đối phó vũ lực với Mặt Trận.
Thái độ này của Huê Kỳ đã làm lệch hẳn cán cân nghiêng về có lợi cho Thủ tướng
Ngô Đình Diệm. Ngược lại, nếu lúc đó mà tòa đại sứ Huê Kỳ chủ trương bảo tồn
thăng bằng, không nghiêng hẳn về một bên như thế, thì Thủ tướng Ngô Đình Diệm hẳn
đã phải mềm dẻo hơn, vì đã tìm được giải pháp khác hơn là võ lực.
Hãy đọc một đoạn trong tập sách “In the Midst of Wars"’ (tác giả: Tướng
Lansdale), được dịch ra Việt văn dưới nhan đề “Tôi làm quân sư cho Tổng thống
Ngô Đình Diệm”, như sau:
Sau khi rời dinh Độc Lập, tôi gặp Collins (đặc sứ của Tổng thống Hoa Kỳ tại Việt
Nam lúc đó) cho biết về nhận định của ông Diệm, và trình bày quan điểm về phản ứng
của ông Diệm, không chấp nhận giải pháp do Pháp và Mỹ đề nghị. Hơn nữa đa số
dân chúng đứng về phía ông Diệm. Khi dân chúng nghe tin về giải pháp đề nghị
nói trên, sẽ có sự lộn xộn lớn. Đó là một sự khiêu khích chớ không phải là một
giải pháp...
Collins tin chắc, với ý nghĩ có lẽ chưa toàn thiện, rằng giải pháp ấy có thể thực
hiện được. Mục tiêu chính vẫn là dập tắt tình trạng căng thẳng để tránh đổ máu.
Collins sẽ về Hoa Thịnh Đốn... (*)
Những dòng trên đây là một phần tin tức trong lúc đó, cho biết rằng Đặc sứ
Collins và Đại tá tình báo Lansdale không đồng ý với nhau về giải pháp của tình
hình tranh chấp giữa Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Lực Quốc Gia và Thủ tướng Ngô
Đình Diệm. Tướng Lawton Collins muốn tìm cách tránh xô xát, trong khi Đại tá
Lansdale quyết tâm trong đường lối “không nhượng bộ các giáo phái”. Do đó, ông
đã đóng một vai trò quan trọng thúc đẩy Thủ tướng và các sĩ quan cao cấp dùng
võ lực đánh dẹp các giáo phái. Vai trò của Đại tá Lansdale rất quan trọng trong
bối cảnh chánh trị lúc đó tại miền Nam Việt Nam.
Về sau, theo lời thuật lại của ông Trần Văn Ân, thì chính Đại tá Lansdale đã
cho quăng trái lựu đạn khiêu khích cho cuộc chiến nổ bùng vào lúc 12 giờ đêm 29
rạng 30-3-1955 tại đại lộ Trần Hưng Đạo, trước bót cảnh sát Trung ương. Tin tức
này được nói lại cho ông Trần Văn Ân bởi một giới chức Tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại
Sàigòn, khi ông Trần Văn Ân từ khám tử hình Côn Đảo trở về Sàigòn (1964) và nhận
chức Tổng trưởng Chiêu hồi (1965).
8 - Phân
Tích Thắng Lợi Quân Sự
Ông Ngô
Đình Diệm đã nêu cao khẩu hiệu “thống nhứt quân đội, thống nhứt uy quyền quốc
gia” để phát động chiến dịch đánh dẹp các tổ chức võ trang giáo phái. Cái chiến
dịch quân sự này đã thành công, bởi vì lúc đó Thủ tướng có các yếu tố thuận lợi,
tạm kể ra sau đây:
— Sự yểm trợ mạnh mẽ của Huê Kỳ về phương tiện và chánh sách. Từ 1-1-1955, viện
trợ quân sự Mỹ không qua trung gian Pháp mà trao thẳng cho Việt Nam. Hơn thế,
thái độ quyết liệt tấn công giáo phái của Đại tá tình báo Lansdale làm cho ông
Diệm dứt khoát mọi tư tưởng lo ngại lưỡng lự trước một tình thế phức tạp. Thái
độ của Lansdale, người cố vấn có thể gặp ông Diệm bất cứ lúc nào, xuất nhập bất
cấm, khỏi cần phải xin hẹn trước, — làm cho ông Thủ tướng có ý rằng đó đúng là
chánh sách của Huê Kỳ, trong khi Huê Kỳ vẫn còn lưỡng lự, Tướng Lawton Collins
đặc sứ của Tổng thống Eisenhower ở Sàigòn vẫn giữ thái độ chờ xem và chưa tin
tưởng nơi ông Ngô Đình Diệm.
— Quân đội quốc gia Việt Nam không còn phải đối phó với Việt Cộng như trước
kia, với một lãnh thổ thu hẹp còn phân nưœa, các đơn vị từ chiến trường miền Bắc
dồn chuyển vào Nam, làm cho quân số có thể dồn tối đa vào việc tấn công các
giáo phái, thay vì phải tản ra nhiều chiến tuyến, nhiều địa phận như trước kia,
lúc cuộc chiến còn đang sôi nổi và lan tràn khắp lãnh thổ Việt Nam. Về mặt
phương tiện quân sự, ngoài viện trợ trực tiếp của Huê Kỳ, quân đội quốc gia còn
nhận được nhiều cơ sở và võ khí các loại, các ngành binh chủng, chuyển giao bởi
quân đội viễn chinh Pháp đang chuẩn bị để về nước. Quân đội quốc gia có một tiềm
năng hành quân cao hơn tất cả xưa nay, về quân số cũng như phương tiện.
— Về nhân sự trong giới quân đội, Thủ tướng Ngô Đình Diệm được sự ủng hộ hầu hết
các cấp chỉ huy quân sự, các cấp sĩ quan thuộc thành phần di tản từ Bắc vào
Nam. Không phải ai cũng thần phục ông Diệm vì đã hiểu biết về ông và tin rằng
ông là một “chí sĩ cách mạng”; nhưng họ ủng hộ ông vì tâm trạng chung của người
di cư. Đây là một tâm trạng đặc thù của những người phải bắt buộc và gấp rút rời
lãnh thổ mà mình đã sanh ra, sống trên đó từ lâu đời, phải bỏ tất cả tài Sản sự
nghiệp, bây giờ ra đi hai bàn tay không, trong hoàn cảnh “chạy loạn” như hoàn cảnh
sau hiệp định Giơ-neo. Những người này đã bỏ mất tất cả dĩ vãng sau lưng, hẳn
nhiên là mong có được điểm tựa để tin tưởng trong những ngày bấp bênh của tương
lai, có được cơ hội tái tạo sự nghiệp cá nhân hay tiếp tục đấu tranh cho lý tưởng
chung. Thủ tướng Ngô Đình Diệm từ ngoại quốc về, với sắc lịnh Ủy nhiệm toàn quyền
dân sự quân sự của Quốc trưởng Bảo Đại, với sự ủng hộ của Huê Kỳ, tất nhiên, đối
với những người Việt di cư này, là một cứu tinh trong cơn khủng hoảng, hay ít
ra cũng là một điểm tựa có nhiều ưu điểm nhứt để họ dựa vào mà bước tới tương
lai trên một vùng đất xa lạ. Tâm trạng này là tâm trạng chung của người di cư đến
xứ lạ, mà tất cả những người Việt rời bỏ Việt Nam năm 1975, di cư sang Huê Kỳ,
đều đã kinh qua và chứng nghiệm. Khi còn lóng nhóng tại các trại chuyển tiếp
Pendleton, Fort Chaffee... người tị nạn Việt Nam nào cũng mong có được một điểm
tựa, thể hiện bằng một người bảo trợ tốt, có khả năng giúp đỡ mình, để cho mình
tin cậy, và sẵn lòng hướng dẫn mình trong bước đầu tiên vào một xã hội mới lạ.
Thủ tướng Ngô Đình Diệm trong bối cảnh xã hội và chính trị 1954 tại Miền Nam,
là hiện thân của người bảo trợ lý tưởng đó đối với đại đa số những đồng bào,
công chức, quân nhân di cư từ Bắc vào Nam, ngoại trừ những người đã có cơ hội
hiểu biết về con người ông, và nhìn thấy được những hậu quả của đường lối và
chánh sách cai trị của ông.
“Tâm trạng người di cư” lúc đó nhìn tất cả những đối lực chống lại ông Diệm là
đối lực chống lại chính tương lai của chính mình — còn được diễn tả rộng ra là
chống lại tương lai của đất nước nói chung — cho nên ngoại trừ các giới tranh đấu
và những người nhìn xa thấy rộng, đại đa số người di cư đều nhiệt thành ủng hộ
Thủ tướng Ngô Đình Diệm, và chống đối lại các giáo phái Miền Nam.
Tâm lý chung của quân đội quốc gia Việt Nam lúc đó, biểu lộ qua thái độ các cấp
chỉ huy, là không ưa các giáo phái võ trang. Vì nhiều nguyên nhân khá phức tạp.
Ngoài dị biệt về nguồn gốc thành phần xã hội, trình độ học vấn, môi trường sinh
hoạt, nếp sống và thái độ xã hội, là những yếu tố cơ cấu kết tụ từ lâu đời, còn
có những lý do thời cơ phát sanh từ các biến cố chánh trị, mà cả hai bên, phía
quân đội cũng như phía giáo phái, không thể không chịu ảnh hưởng, mà cũng không
thể phân định lỗi phải rõ ràng được. Tất cả những yếu tố này, theo thời gian,
trở nên các thành kiến vừa thấm vào bề sâu tâm lý, vừa truyền nhiễm rộng ra, thể
hiện thành thái độ đối nghịch lẫn nhau. Đó là một hiện tượng phi lý mà có thật.
Phía quân đội quốc gia có thiên kiến cho rằng giáo phái là những đạo quân ô hợp,
áo quần luộm thuộm, hàng ngũ lếch thếch, quân kyœ lôi thôi, chỉ huy ít học, hay
sách nhiễu dân chúng... Mặc cảm tự ty và tự tôn của đôi bên cũng rất phức tạp.
Phía giáo phái tự tôn là chiến đấu cực khổ và gan dạ, trong khi phía quân đội
quốc gia bề ngoài hào nhoáng, nhưng lại ngại gian khổ, sợ nguy hiểm. Phía quân
đội quốc gia tự tôn xuất thân từ các trường chính quy, có học vấn và kiến thức
cao hơn. Những mặc cảm phức tạp tự ty pha trộn tự tôn, ngược chiều và nghịch lý
đó đã làm cho đôi bên nhìn nhau thiếu thiện cảm. Khi các giáo phái võ trang
thách thức Thủ tướng Ngô Đình Diệm, cũng là lúc các sĩ quan cao cấp quân đội quốc
gia nghĩ rằng danh dự của họ bị thách thức, danh dự quân đội quốc gia bị thách
thức.
Cũng ở thời điểm đó, các cấp chỉ huy quân đội quốc gia ý thức các lợi điểm của
mình về quân số và võ trang đang tăng gia, cộng với thế chính thống, lại còn
thêm sự ủng hộ của Huê Kỳ. Các yếu tố thuận lợi đã hội tụ để quân đội quốc gia
chuyển mình thoát xác từ một quân đội phụ thuộc vào quân đội Pháp do các tướng
lãnh Pháp chỉ huy, nay trở thành một quân đội chính quy hùng mạnh của một quốc
gia độc lập. Từ cái thế đó, và trong bối cảnh đó, các điều kiện thuận lợi đã tạo
cho quân đội quốc gia động lực hăng hái và cương quyết đối đầu với quân lực các
giáo phái. Về mặt tâm lý, đây cũng là cơ hội để chứng minh ngược lại rằng quân
đội quốc gia chiến đấu gioœi hơn các giáo phái, đè bẹp được các giáo phái. Do
đó, đương nhiên quân đội quốc gia đứng về phía Thủ tướng Ngô Đình Diệm, chống lại
các giáo phái, và đã chứng tỏ khả năng chiến đấu với những thành quả đã đạt
trong các cuộc hành binh dẹp quân lực giáo phái. Có thể nói rằng thành quả gọi
là “phi thường” đầu tiên của quân đội quốc gia, và chiến công lúc đó của các Tướng
Đỗ Cao Trí, Dương Văn Đức, Dương Văn Minh, là thành quả chiến thắng giáo phái,
chớ không phải thành quả chiến thắng Việt Minh. Đó cũng là một điều khá nghịch
lý!
Phía các giáo phái trong lúc đó, bị kẹt vào các điểm bất lợi sau đây:
— Hoa Kỳ không có thiện cảm với các giáo phái. Từ một quốc gia dân chủ tiến bộ
hàng đầu, mới trực tiếp can thiệp vào vấn đề Việt Nam ít lâu, chưa sống và hiểu
đầy đủ những thực tế đặc thù của xã hội Việt Nam. Huê Kỳ lại càng không hiểu
nguồn gốc sâu xa phát sinh tôn giáo và lực lượng giáo phái võ trang tại Miền
Nam Việt Nam. Hoa Kỳ nhìn vào bề mặt của vấn đề và kết luận rằng phải dẹp ngay
các lực lượng võ trang giáo phái để củng cố uy quyền của Thủ tướng Ngô Đình Diệm
hầu đối phó hữu hiệu với Cộng Sản Miền Bắc.
— Pháp hiểu biết về các giáo phái nhiều hơn, nhưng chánh sách Pháp xưa nay chỉ
nhằm lợi dụng các giáo phái, và đến khi phải rút khỏi Việt Nam, Pháp không thể
giúp cho các giáo phái; dù Pháp muốn, cũng không còn lợi thế và danh nghĩa để
làm điều đó. Những tiếp liệu đạn dược và tài chánh cho các quân đội giáo phái
đã bị Pháp giảm đi từ giữa năm 1954, và dự trù đến ngày 10-2-1955 là chấm dứt
toàn bộ.
— Từ đầu 1955, ngoại trừ Bình Xuyên có dự trữ tài chánh do lợi tức Đại thế giới
Kim Chung, hai giáo phái Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo lâm vào tình trạng thiếu
thốn tài chánh và đạn dược. Tướng Lê Văn Viễn có giúp đỡ một phần nhỏ về tài
chánh, nhưng cũng không trám nổi các lỗ hủng thiếu hụt càng ngày càng lớn ra. Với
một quân số Phật Giáo Hòa Hảo cộng chung lúc đó khoảng 30.000 người, các nguồn
tài trợ chấm dứt mà không có cái gì thay thế, các dự trữ có đem ra sử dụng cũng
không thể kéo dài hơn được vài ba tháng. Phía Cao Đài cũng ở trong tình huống
tương tự.
— Tương quan lực lượng giữa quân đội quốc gia và quân lực các giáo phái bây giờ
đã nghiêng lệch hẳn đi, cả trên hai tiêu chuẩn. Phía yếu kém rõ ràng là phía
các giáo phái, quân sĩ giao động trước các biến chuyển bên ngoài và thiếu thốn
tiếp liệu, tài chánh bên trong. Ngược lại quân đội quốc gia tiếp nhận thêm
trang bị, viện trợ tài chánh, tập trung thêm quân số vào Miền Nam, và tinh thần
cũng phấn khởi thêm lên nhờ những yếu tố thuận lợi và tăng trưởng đó. Các giáo
phái lại không phối hợp chặt chẽ được các lực lượng võ trang và chính trị.
— Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Lực Quốc Gia gồm có Dân Xã, Hòa Hảo, Cao Đài, Liên
Minh và Bình Xuyên. Nhưng trong nội bộ Cao Đài, hai đơn vị Trình Minh Thế (Liên
Minh) và Nguyễn Thành Phương (quân lực Cao Đài) đã rút ra khỏi Mặt Trận (do sự
vận động của Đại tá Lansdale) đổi từ vị trí sát cánh với Mặt Trận, sang vị trí
hợp tác với Thủ tướng để chống lại Mặt Trận. Phòng tuyến quân sự đã yếu đi,
phòng tuyến chánh trị của Mặt Trận bị nứt rạn, lần đầu ngày 13-2-1955 đơn vị
Trình Minh Thế rút ra, và lần thứ hai ngày 31-3-1955 đơn vị Nguyễn Thành Phương
rút ra. Thực lực Mặt Trận chỉ còn các lực lượng quân sự Phật Giáo Hòa Hảo, Dân
Xã, và Bình Xuyên. Mặc dù Chủ tịch Mặt Trận, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc vẫn kiên
trì lập trường và bổ nhậm Tướng Cao Đài Nguyễn Văn Thành thay thế Nguyễn Thành
Phương, để tham gia Chủ tịch đoàn Mặt Trận, nhưng Tướng Thành lại không có Bộ tham
mưu, không có đơn vị võ trang; dù ông có khả năng huy động quy tụ để thành lập
các đơn vị mới dưới sự bảo trợ của Đức Hộ Pháp, ông cũng không thể thực hiện
ngay được. Như thế, thực lực quân sự của Mặt Trận đã bị suy giảm mất 40 phần
trăm về số lượng, và còn suy giảm trầm trọng hơn về khí thế và chánh trị.
— Về phương diện chiến thuật quân sự, các tổ chức võ trang Phật Giáo Hòa Hảo và
Bình Xuyên, Dân Xã, tuy thiện chiến khi đương đầu với Việt Minh Cộng Sản, nhưng
sở trường của họ là chiến thuật phản du kích, chống du kích. Bây giờ họ phải
đương đầu với quân đội quốc gia trong một cuộc chiến hoàn toàn khác, đối phương
không phải chỉ là các đơn vị nhỏ du kích trong đồng ruộng, mà là những đại đơn
vị có pháo binh, hải không quân yểm trợ. Các phương tiện chiến đấu này trước
kia của Pháp yểm trợ các quân lực giáo phái khi họ xông vào chiến khu truy lùng
Việt Minh, thì bây giờ, cũng chính các loại phương tiện này, của quân đội quốc
gia, dùng để tấn công lại các giáo phái. Trước kia Việt Minh có thể chịu đựng
lâu dài vì có hậu cứ bưng biền, các khu chiến, các tổ chức yểm trợ chiến trường.
Bây giờ các lực lượng võ trang giáo phái, khi bị tấn công phải rút bỏ các căn cứ
ở vùng an ninh và trục lộ giao thông, để lui sâu vào bưng biền, mà lại không có
sẵn các căn cứ hay khu chiến, ngoại trừ trường hợp của đơn vị Lê Quang Vinh
đang ở tại bưng biền, tất nhiên các lực lượng võ trang giáo phải phải gặp rất
nhiều khó khăn, trong một hoàn cảnh mới, một tình thế mới, mà họ không chuẩn bị
trước.
Trường hợp của Bình Xuyên trước khi rút bỏ căn cứ cầu chữ Y, là một lực lượng mạnh
tại đô thành Sàigòn - Chợ Lớn, nhưng khi phải rút lui về chiến khu Rừng Sát,
thì không còn địa bàn và hậu cứ để chịu đựng lâu dài.
Trường hợp các lực lượng Hòa Hảo, khi rút khỏi căn cứ Cái Vồn và các trục giao
thông, lui vào đồng ruộng, cũng không có sẵn các hậu cứ và tổ chức chiến khu, mặc
dầu địa phận miền Tây có điều kiện dân chúng về tiếp liệu thuận lợi hơn Rừng
Sát. Bộ tham mưu quân lực Phật Giáo Hòa Hảo (Trần Văn Soái) có hoạch định một
chương trình xây dựng chiến khu Đồng Tháp Mười để chiến đấu lâu dài, nhưng đó
chỉ là ý định sau khi đã rút vào bưng biền, chớ không có chuẩn bị từ trước.
Chương trình này không có các điều kiện phương tiện và thời gian để thực hiện
ngay được, trong khi quân đội quốc gia tập trung một lực lượng khổng lồ sáu sư
đoàn để bao vây và tấn công (chiến dịch Đinh Tiên Hoàng cuối 1955). Mặt khác,
quân lực Phật Giáo Hòa Hảo còn phải đối phó với khối dân chúng theo Việt Minh từ
1945 và các cán bộ Cộng Sản nằm vùng ẩn náu trong Đồng Tháp Mười. Một sĩ quan
trong Bộ tham mưu Phật Giáo Hòa Hảo đã tiết lộ cho biết rằng các cán bộ Cộng Sản
lúc đó huy động dân chúng biểu tình ủng hộ “cuộc kháng chiến của Hòa Hảo chống
Mỹ Diệm”. Nhưng Bộ tham mưu Phật Giáo Hòa Hảo đã cương quyết cấm đoán, vì e rằng
sẽ bị hiểu lầm là bây giờ Hòa Hảo cộng tác với Việt Minh, theo đường lối của Việt
Minh Cộng Sản. Trong lúc đó, bộ máy tuyên truyền của Thủ tướng Ngô Đình Diệm và
quân đội quốc gia bắt đầu tung ra luận điệu chụp mũ “Hòa Hảo hợp tác với Việt
Minh”, nhưng về sau không hề trưng ra được bằng chứng nào về việc này. Cũng như
luận điệu “quân đội Pháp tiếp liệu cho Hòa Hảo”, tất cả đều hoàn toàn bịa đặt bởi
bộ máy tuyên truyền của Thủ tướng Ngô Đình Diệm, với mục tiêu đánh hạ uy tín của
Phật Giáo Hòa Hảo lúc đó.
Kết quả các cuộc hành quân của quân đội quốc gia đánh dẹp các quân lực giáo
phái, như sau:
— Ngày 24-10-1955, đơn vị cuối cùng của Bình Xuyên chấm dứt hoạt động tại Rừng
Sát. Một bộ phận Bình Xuyên do Bảy Môn chỉ huy không về quy thuận Thủ tướng Ngô
Đình Diệm, mà kéo về chiến khu rồi sau này gia nhập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng
Miền Nam, trở thành một yếu tố mà Cộng Sản Hà Nội sử dụng để tuyên truyền.
— Ngày 19-2-1956, lực lượng Trần Văn Soái ra quy thuận.
— Ngày 13-4-1956, Tướng Lê Quang Vinh bị bắt.
Phía Phật Giáo Hòa Hảo, sau khi Tướng Lê Quang Vinh bị bắt, và bị hành quyết
(13-7-1956), còn một đơn vị võ trang kéo lên biên giới Việt Miên lập chiến khu,
do Tướng Trương Kim Cù chỉ huy. Ông Trương Kim Cù sau cũng không chịu đựng nổi
sức tấn công của quân đội quốc gia, và cũng cương quyết không hợp tác với Cộng
Sản, cho nên đã chọn con đường lưu vong. Ông ra lịnh cho quân sĩ sơ tán, và kéo
Bộ tham mưu vào lãnh thổ Cao Miên, xin tị nạn tại Cao Miên. Không hề có một đơn
vị Phật Giáo Hòa Hảo hay Dân Xã nào, vì lý do chống chế độ Ngô Đình Diệm, mà lại
quay sang hợp tác với Việt Minh. Đó là một điều rất rõ ràng trong lịch sử.
No comments:
Post a Comment