Thursday, November 28, 2013

PHẬT GIÁO HÒA HẢO TRONG DÒNG LỊCH SỬ DÂN TỘC - PHẦN 2


CHƯƠNG 7: Phật Giáo Hòa Hảo Xuất Hiện
Các giới nghiên cứu về Tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương đều đồng ý rằng Phật Giáo Hòa Hảo là giai đoạn phát triển tích cực và quảng đại nhứt của Bửu Sơn Kỳ Hương. Từ khi Tông phái ra đời (1849), thời gian 90 năm này được phân định ra thành ba thời kỳ mang tánh chất khác nhau.
Thời kỳ khai lập (Phật Thầy Tây An, 1849-1856)
Thời kỳ củng cố (Phật Trùm, Bổn Sư, 1868-1901)
Thời kỳ phát triển (Huỳnh Giáo Chủ, 1939)
Sau thời kỳ khai lập, và sau khi Phật Thầy Tây An tịch diệt, khả năng phát triển của Tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương bị kềm hãm bởi chế độ thuộc địa của người Pháp, bắt đầu xâm chiếm và cai trị miền Nam từ 1862.

Cho nên các vị kế truyền (Phật Trùm, Bổn Sư) chỉ có thể hoạt động giới hạn, không thể bành trướng nhiều và xa hơn, các nỗ lực truyền đạo trong thời kỳ này nặng về mục tiêu củng cố tinh thần Bửu Sơn Kỳ Hương mà vị Giáo Tổ Phật Thầy Tây An đã gieo mầm trong quần chúng. Đặc biệt trong thời kỳ củng cố này, Bửu Sơn Kỳ Hương huy động tín đồ tham gia kháng chiến chống Pháp. Tuy nhiên, các nỗ lực cách mạng kháng Pháp này cũng phải suy trầm theo với sự suy trầm chung của phong trào Văn Thân Cần Vương trên toàn quốc. Đến khi thế lực Pháp đã vững vàng, kể từ đầu thế kyœ 20, Bửu Sơn Kỳ Hương với ông Sư Vãi Bán Khoai, chỉ còn đạo và bảo tồn tinh thần ái quốc, chớ không còn tổ chức và hoạt động kháng chiến nữa.

Thời kỳ khởi đầu từ 1939 với sự xuất hiện của tổ chức Phật Giáo Hòa Hảo, được xem là giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhứt của Tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Ở thời kỳ này, tư tưởng Bửu Sơn Kỳ Hương đã thấm nhuần trong quần chúng qua suốt chín mươi năm tiềm tàng, nay có thời cơ bộc phát mãnh liệt trong một bối cảnh xã hội mới, với một sinh lực mới, và do một thanh niên lãnh đạo là Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ, khi lập đạo Phật Giáo Hòa Hảo ông mới có 20 tuổi

CHƯƠNG 8: TƯ TƯỞNG ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ
Ý kiến chung các giới đối với những tác phẩm của Huỳnh Giáo Chủ, mà sau này Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo đã tập trung thành một bộ sách dày trên 500 trang mang tên “Sấm giảng Thi văn Toàn bộ” ấn hành bởi Ban Phổ thông Giáo lý Trung ương Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo năm 1965, có nhận xét tổng quát là: về hình thức cũng như nội dung, tác phẩm cũng như tư tưởng của Huỳnh Giáo Chủ đã không sắp xếp thứ tự theo phương pháp khoa học, thành một hệ thống tư tưởng hay hệ thống ý thức, gọi tắt là ý thức hệ, hay ý hệ.

Có thể tự nhiên như thế, hoặc có thể do chủ ý của Giáo Chủ. Phần các giới chức Phật Giáo Hòa Hảo tin rằng đó chỉ là chủ ý của tác giả, và thường hay viện dẫn những câu sau đây mà Giáo Chủ đã viết:

Quyết dạy đời nên nói lời thường,
Cho sanh chúng đời nay dễ biết. (*)

Dạy bổn đạo lấy câu trung đẳng,
Chẳng nói cao vì sắp rốt đời. (**)

Nói chung, thánh kinh các đại tôn giáo trên thế giới (Ấn giáo, Phật Giáo, Cơ Đốc giáo, Hồi giáo) không hẳn là các ý thức hệ. Những lời thuyết giảng của vị Giáo Chủ được các đệ tử và học giả đương thời ghi nhớ hay chép lại, rồi dần dà theo thời gian, được đối chiếu, hiệu chính, san định, phân tích, luận giải, sắp xếp theo trình tự thời gian hay tư tưởng, để sau hết trở thành các thánh kinh Veda, Tam Tạng, Bible, Coran...

Từ thánh kinh, các học giả nghiên cứu về sau mới rút ra những tư tưởng triết lý, luân lý, đạo đức, và các tư tưởng về xã hội, văn hóa, chính trị, kinh tế... Khi được sắp xếp thành hệ thống, người ta gọi là hệ thống tư tưởng, Tây phương gọi là “Ism”: Hindouism, Buddhism, Catholicism, Islamism...
CHƯƠNG 9: PHONG TRÀO BẢO AN CHUẨN BỊ ĐẤU TRANH
Một đặc điểm cần nêu lên, là tính chất tự động tự nguyện của các phong trào võ trang kháng chiến chống thực dân Pháp xuất phát tại miền Nam.

TRUYỀN THỐNG NGHĨA BINH

Sĩ phu và dân chúng miền Nam đã không đợi đến khi vua Hàm Nghi truyền lịnh cần vương (1885), mà đã tự động nổi dậy kháng Pháp trước đó. Các phong trào này nhẹ tính chất “vì vua mà chống Pháp” (cần vương), dân chúng và sĩ phu phất cờ kháng chiến chống ngoại xâm là do động lực yêu nước trước hết. Đó là tinh thần “ứng nghĩa kháng chiến”, cho nên được gọi là nghĩa binh (khác với quân đội triều đình hay quân đội quốc gia, mà đây là quân đội của nhân dân, của những người vì đại nghĩa dân tộc, tự nguyện đứng lên, và tự động kết hợp nhau thành đội ngũ nghĩa quân.)

Như đã nói ở các chương trước, giáo lý Bửu Sơn Kỳ Hương với thuyết Tứ Ân, đã gieo rắc và khơi động ý thức dân tộc trong tâm hồn mộc mạc của người dân nông thôn miền Nam, lại thêm tinh thần “anh em kết nghĩa” của các tổ chức Thiên Địa Hội du nhập từ Trung Quốc qua những nhóm người phản Thanh phục Minh đã đến xin tị nạn tại miền Nam từ đời chúa Nguyễn Phúc Chu.

Cũng vì động lực kháng chiến là lòng ái quốc, cho nên các tổ chức nghĩa quân đã bất tuân huấn lịnh của triều đình, khi các chỉ thị đó đi ngược lại quyền lợi tối thượng của đất nước, nhìn theo quan điểm của họ trong bối cảnh thời cuộc họ đang sống. Vua không quan trọng bằng Tổ quốc, tinh thần này đã được thể hiện trong dân chúng miền Nam, sau khi triều đình Huế ký kết hòa ước 5-6-1862 nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp: lòng dân miền Nam sôi sục, đau đớn, căm hờn ngùn ngụt khắp trời. Hãy đọc một đoạn thơ của cử nhân Phan Văn Trị trong bài “Điếu Lục Tỉnh Nam Kỳ Sỹ Dân Văn’’:

Tan nhà căm hờn nỗi câu ly hận,
Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa!

... Bớ các quan ơi! Chớ thấy chín trùng (tức triều đình) hòa nghị, mà tấm lòng địch khái nỡ phôi pha, cho rằng ba tỉnh giao hòa, mà cái việc cừu thù đành lơ đãng...
... Bớ các làng ơi! Chớ thấy đồn lũy dưới Gò Công thất thủ, mà trở mặt hại nhau, chớ thấy trên Bến Nghé phân cư, mà đành lòng theo mọi (Pháp).
... Hỡi ơi! Oan nhường ấy, hận nhường ấy, cừu thù nhường ấy, làm sao trả đặng mới cam.

Trong không khí sôi sục đó, vua Tự Đức ra lịnh cho các bộ đội kháng chiến lui gom về ba tỉnh miền Tây. Cuối tháng 6-1862, Kinh lược sứ Phan Thanh Giản ở Vĩnh Long, theo lịnh vua, khuyên các lãnh tụ kháng chiến Võ Duy Dương, Trương Công Định nên bỏ khí giới, để cho tình thế tạm yên, đặng điều đình với Pháp. Các lãnh tụ này nhứt định không nghe theo, nên triều đình cách hết chức tước của họ. Tháng 8-1863, lãnh tụ kháng Pháp Nguyễn Hữu Huân thất trận ở Thuộc Nhiêu (Mỹ Tho) chạy về Thất Sơn (Châu Đốc) ẩn náu, thì bị Tổng đốc An Giang Phan Khắc Thân bắt giam vì tội không tuân lịnh ngưng chiến của triều đình. Ít ngày sau, Thủ khoa Huân bị giao nạp cho quân Pháp, và sau đó bị đày đi đảo Réunion. (Cuối cùng Thủ khoa Huân bị Pháp xử tử).
Trương Công Định có thái độ rõ ràng khi ông nói rằng: “Triều đình hòa với Pháp nhưng nhân dân Việt Nam không thể tán thành việc hòa giải này...” (*)

Bất chấp lịnh triều đình, các tổ chức kháng chiến miền Nam lại không được triều đình tiếp tế giúp đỡ gì, và sau cùng thế yếu lực kiệt tất cả các lãnh tụ như Trương Công Định, Vo Duy Dương, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân, Trần Văn Thành, đều đã đền nợ nước tại trận tiền, hay dưới máy chém của quân Pháp. Họ đã đánh dấu một giai đoạn đặc biệt của lịch sử đề kháng ngoại xâm rất hào hùng oanh liệt của người dân Việt yêu nước tự động tự nguyện đứng lên làm bổn phận con dân.

Các nhà nghiên cứu văn hóa thường nhận xét rằng dân tộc Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của Nho Giáo. Nhận xét này đã đúng trên bình diện tổng quát, nhưng không hẳn đúng về mức độ ảnh hưởng của từng miền. Rõ ràng là tại miền Bắc và miền Trung Việt Nam, ảnh hưởng Nho Giáo sâu đậm, mạnh mẽ hơn là ở miền Nam. Tinh thần tam cương trong đạo Khổng Mạnh không làm cho người dân miền Nam nhắm mắt trung với Vua, chết theo lịnh Vua. Khoảng cách không gian giữa miền Nam với Vua không mật thiết như ở Trung và Bắc Việt Nam.

Tuy rằng vua Gia Long đã được dân miền Nam giúp đỡ tận tình trong thời kỳ tẩu quốc, nhưng điều đó không có nghĩa là họ chấp nhận “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Dân miềnNam cảm thương — tiếng bình dân là tội nghiệp — một vị vương giả thất thế, gặp hồi tai nạn, nên sẵn sàng giúp đỡ. Họ cũng không cảm tình với những đạo quân Tây Sơn quá dữ dằn giết bừa bãi, qua những đợt tàn sát kinh hồn tại miền Nam, và cũng chưa nhìn thấy Gia Long làm điều chi phản nước hại dân trong thời kỳ bôn ba tẩu quốc. Họ chỉ “thương vua thất thời lận đận lao đao, bị nã tróc truy tầm, trốn chui trốn nhủi...”. Đó là tinh thần phò suy rất đặc biệt của người dân miền Nam.

Nhưng khi phải đối diện với đại nghĩa dân tộc, người dân miền Nam bồng bột hăng say tự nguyện nổi dậy sống chết chống ngoại xâm, và khi triều đình hành động ngược lại quyền lợi Tổ quốc, họ chọn lựa thái độ đứng về phía dân tộc, không nghe lời vua. Họ không chờ lịnh triều đình, cũng không chờ đợi quân đội của triều đình lãnh đạo kháng chiến, rồi họ mới hưởng ứng. Họ tự động nổi dậy, bằng phương tiện của chính họ, và sau đó họ cũng tự động không tuân lịnh triều đình bắt họ buông võ khí.

Luật pháp triều đình có thể xem họ là phiến loạn, nhưng họ tự cho rằng họ hành động vì lòng yêu nước. Và họ đã đúng, họ đã có lý, nên đã được vinh danh trên những trang sử Việt Nam cận đại, trong khi các ông vua làm lợi cho ngoại xâm đã bị lịch sử kết tội.

Có hiểu được tâm lý người dân miền Nam, mới hiểu được thái độ của những tổ chức võ trang miền Nam, mới hiểu được thái độ của những tổ chức võ trang miền Nam chống đối ông Ngô Đình Diệm khi ông này nhìn họ như những “sứ quân thảo khấu”, quên một điều là chính họ tự động kháng chiến trong khi ông lại không hề chịu những gian khổ với họ, trong những giai đoạn khó khăn, nguy hiểm, sinh tử và phức tạp của lịch sử.

PHẬT GIÁO HÒA HẢO

Việt Nam có sẵn truyền thống “nhân dân tự vệ” từ lâu đời, thể hiện qua tổ chức và hình thức làng xã tại miền Bắc, với chế độ xã thôn tự trị. Làng xã miền Bắc là một vùng đất được bao quanh bởi lũy tre kiên cố, có những cổng làng để ra vào, thường đặt điếm canh để bảo vệ an ninh trong làng, đề phòng kẻ lạ mặt đến phá khuấy. Mỗi làng xã tự lo lấy việc trị an, và chính trai tráng trong làng phân công đảm nhận nghĩa vụ bảo vệ an ninh của làng.

Làng xã miền Nam không giống hình thái làng xã miền Bắc. Làng miền Bắc là một hình thể thu gọn có chu vi, trái lại làng xã miền Nam là một đường dài đi theo sông theo rạch, mà ranh giới thường là một con sông, hoặc do sự hoạch định hành chánh, có khi trên một con sông rạch, có nhiều làng liên tục. Có lẽ sự khác biệt hình thái cũng ảnh hưởng tới sự khác biệt về tánh tình, thái độ và nếp sống của dân chúng. Người dân miền Bắc “khép kín” vào làng mình, đến đỗi coi dân làng khác hay những kẻ ở làng khác đến ngụ cư trong làng mình, là dân “ngoại tịch”. Tinh thần xã thôn tự trị ở miền Bắc cao hơn miền Nam, cho nên con người thường chỉ biết có “làng của mình” ngoài gia đình mình. Thể hiện qua tập tục pháp lý “phép vua thua lệ làng”, mối liên hệ với hệ thống hành chánh cao hơn cấp làng đối với họ chỉ rất mơ hồ xa xôi. Đây là tình trạng trước biến cố 1945.

Trái lại, người dân làng miền Nam có tinh thần khá cởi mở giữa làng này với làng kia, và các “lệ làng” cũng không chặt chẽ cứng rắn như ở Trung, Bắc. Hình thái làng “trải dài ra” thay vì “khép kín lại” của làng xã, có vẻ giống đặc tính cởi mở của dân miền Nam.

Hình thể địa dư làng xã cũng ảnh hưởng đến sinh hoạt nhân dân tự vệ trong công tác bảo vệ làng xã. Tại miền Bắc, trước năm 1945, làng là một pháo đài riêng của làng. Nhưng trong miền Nam tổ chức nhân dân tự vệ của Phật Giáo Hòa Hảo, mang tên là tổ chức Bảo An, lại không chỉ là nhân dân tự vệ của riêng từng làng.

Tổ chức Bảo An Phật Giáo Hòa Hảo hình thành trong bối cảnh tiền cách mạng Việt Nam, xuất phát từ lý do chính trị, không phải chỉ để bảo vệ an ninh làng xóm. Các giới chức Phật Giáo Hòa Hảo cho biết ý nghĩa của danh xưng Bảo An như sau:
— Giải nghĩa hẹp là bảo vệ an ninh làng xã, nhưng không phải là mục đích chánh yếu. Giải nghĩa rộng là Bảo quốc An dân, tức bảo vệ quốc gia dân tộc.

Tại miền Nam, ở giai đoạn trước biến cố 8-1945, một tổ chức được đông đảo thanh niên và trung niên hưởng ứng, là phong trào Thanh Niên Tiền Phong, ra đời đầu năm 1945, nhưng phạm vi hoạt động giới hạn ở đô thị nhiều hơn là vùng nông thôn. Như thế có thể nói rằng phong trào Bảo An Phật Giáo Hòa Hảo đã ra đời gần hai năm sớm hơn phong trào Thanh Niên Tiền Phong, cả hai tổ chức đều có khuynh hướng đấu tranh, quy tụ lớp thanh niên và trung niên, để chuẩn bị tham gia cuộc cánh mạng giải phóng dân tộc, đối đầu chủ trương tái chiếm thuộc địa của đế quốc Pháp. Trên tiêu chuẩn xã hội và kiến thức, phong trào Bảo An Phật Giáo Hòa Hảo quy tụ tầng lớp nông dân chất phác. Cả hai phong trào quần chúng này bao gồm đại đa số lớp người Việt có nhiệt huyết và sức khỏe thể chất, đáng tiếc là đã không hiệp lại được thành sức mạnh cách mạng của dân tộc, mà lại bị chia thành hai giới đối nghịch nhau vì lý do chính trị, bởi âm mưu của đảng Cộng Sản Việt Nam, dưới danh nghĩa Việt Minh thời 1945, trong đường lối lấy thành thị áp đảo nông thôn.

Sau đây là phần trích dẫn từ cuốn sách “Huỳnh Giáo Chủ” của tác giả Vương Kim nói về lý do chánh thức thành lập tổ chức Bảo An Phật Giáo Hòa Hảo. Lý do “chánh thức” dùng để công bố đối với chánh quyền đương thời, để giảm bớt sự chú ý và theo dõi ngăn cản, tất nhiên khác với lý do thầm kín đã được biểu lộ trong ý nghĩa “bảo quốc an dân” có tầm vóc và mục đích rộng lớn quan trọng hơn việc bảo vệ hương thôn.

ĐỘI BẢO AN

Huỳnh Giáo Chủ đã thấy trước Nhựt sẽ đầu hàng. Trong tình trạng này, hương thôn sẽ phải trải qua một giai đoạn hỗn độn, vô trật tự có thể nói vô chánh phủ. Trước kia, khi Nhựt đảo chánh Pháp, đã có chuẩn bị trứơc một bộ máy cai trị để thay thế, nhờ vậy mà giữ được an ninh trật tự, bởi bộ máy hành chánh được duy trì và tiếp tục hoạt động.

Nay nếu như Nhựt đầu hàng, bộ máy cai trị của Nhựt sẽ sụp đổ trong lúc không có bộ máy cai trị hữu hiệu khác thay thế, thì sao khỏi gây nên tình trạng rối loạn, vì cơ quan an ninh đã trở thành bất lực hay vô hiệu. Trong khoảng thời gian đó, chi cho khỏi xảy ra cướp bóc, giết hại do đám người thừa nước đục thả câu, gây nên để thỏa mãn dục vọng và thù oán cá nhân.

Để kịp thời ứng phó với biến chuyển sắp tới, sự tổ chức quần chúng thành các đội Bảo An có thể thực hiện được những việc:
Giữ việc trị an trong làng để phòng ngừa trộm cướp, giải tán những cuộc ẩu đả, bắt bớ các đám cờ bạc, giữ gìn trật tự.
Bảo vệ mùa màng.
Tìm bắt kẻ gian.
Tổ chức Bảo An, cứ mỗi tiểu đội có một tiểu đội trưởng, mỗi trung đội có một trung đội trưởng. Tất cả đặt dưới quyền điều khiển của một viên Đoàn trưởng.

Trong xã ấp, những nơi có vườn xoài, vườn tre, những nơi có bóng mát, đều có lập sân tập võ, do một võ sư đứng ra huấn luyện. Ngoài các đội Bảo An nam, còn có các đội Bảo An nữ, ngày đêm tập luyện võ thuật côn quyền đao kiếm. Trên đường đi, không dứt tiếng đếm bước: Một, hai, một hai..., nhứt là những đêm trăng sáng cảnh tượng tập dượt thật là náo nhiệt. Namtheo nam, nữ theo nữ, xếp thành hàng ngũ chỉnh tề, áo khăn đồng phục. Tinh thần võ thượng lên cao không lúc nào bằng.

Cũng nhờ các đội Bảo An này, khi Nhựt đầu hàng mà làng xã trật tự được duy trì, an ninh được bảo đảm, nhứt là trong thời kỳ lực lượng kháng chiến rút lui, cơ quan hành chánh hoàn toàn sụp đổ. (*)

Cũng nên trích dẫn thêm một tài liệu ngoại quốc do tác giả A.M Savani viết “Evolution de la Secte” nói về sự hình thành tổ chức đấu tranh Phật Giáo Hòa Hảo:

Sinh hoạt tín ngưỡng của Phật Giáo Hòa Hảo chìm xuống khi các vấn đề chính trị hiện ra trước mắt và khẩn trương. Bắt đầu năm 1943, ông Lâm Thơ Cưu là người thường đưa những tài liệu hay khẩu lịnh của Huỳnh Giáo Chủ về miền Hậu Giang để phổ biến trong khối tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo. Nội dung các tài liệu và thi văn này ngụ ý tiên liệu rằng người Pháp sẽ phải ra đi, Việt Nam sẽ tiến tới độc lập, đây là thời kỳ vô cùng khốn khổ điêu linh cho dân chúng, và chúng sanh phải lo tu hành mới mong thoát khổ.

Ảnh hưởng của những tài liệu này rất mạnh mẽ và sâu rộng trong quần chúng. Có hai loại phản ứng. Những người nặng về khuynh hướng tín ngưỡng, bỏ các sinh hoạt thế tục, kể cả canh tác nông nghiệp, bỏ luôn nhà cửa, để lên núi Thất Sơn mà chuyên tâm tu hành. Những người nặng khuynh hướng đấu tranh, nhiều năng động, đặc biệt lớp trẻ tuổi dưới bốn mươi, tham gia tổ chức Bảo An, nhập cuộc đấu tranh.

Trước những biến động này, nhà cầm quyền Pháp hạ lịnh cấm đoán, ngăn cản dân hành hương, bắt bớ các tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo cầm đầu hoạt động, một số bị tù đày đi Côn Đảo và Bà Rá, trong đó có một người sau này là tướng Nguyễn Giác Ngộ, một thủ lãnh quân sự của Phật Giáo Hòa Hảo, và một số cao đồ đã chết luôn trong tù đày như các ông Cả Đô, ông Cả Cừ, ông Dương Thiện Sứ tự Sử...

Vào cuối năm 1945, ông Đạo Khùng (tức Huỳnh Giáo chủ) bộc lộ thái độ không tin tưởng Nhựt Bổn, và không dựa vào Nhựt để đạt mục đích đấu tranh. Từ đó Phật Giáo Hòa Hảo bắt đầu thực sự tổ chức các đơn vị võ trang với hai mục đích:
Sẵn sàng ứng phó với biến động thời cuộc,
Chống trả bằng võ lực nếu bị cảnh sát đàn áp.

Về mặt chính trị, từ đầu 1944, ông Huỳnh Phú Sổ liên lạc với ‘’Chánh phủ An Nam tại Trùng Khánh’’. (Thực ra đây là Chánh Phủ Liên Hiệp Lâm Thời thành lập ngày 28-3-1944 tại Trung Quốc, do nhà cách mạng Trương Bội Công làm Chủ tịch, gồm các quý vị Nguyễn Hải Thần, Vũ Công Khanh, Hồ Chí Minh, Bồ Xuân Luật, Nghiêm Kế Tổ. Cũng nên biết: sự có mặt của Hồ Chí Minh trong chánh phủ này là do áp lực của tướng Trương Phát Khuê, đại diện chánh phủ Liên Hiệp Quốc Cộng Trung Hoa — tác giả chú giải).

Khi Nhựt bổn khám phá điều trên, họ bao vây chặt chẽ ông Đạo Khùng trong nhiều tháng, nhưng họ không ngăn cản được sự phát triển của tổ chức nhân dân tự vệ Phật Giáo Hòa Hảo mang tên là Bảo An đã thành lập theo chỉ thị của ông Huỳnh Phú Sổ, Bảo An được lịnh rèn các loại võ khí bén, luyện tập võ nghệ Việt Nam, học tập quân sự, trang bị các ghe xuồng, chuẩn bị lương thực, và giới hạn mọi nhu cầu phù phiếm để dồn mọi khả năng vào đấu tranh của đoàn thể Phật Giáo Hòa Hảo. (*)

Bản phúc trình của cơ quan Cảnh sát Đặc biệt, tức cảnh sát chánh trị “Rapport sur les Sectes Religieuses” năm 1944, đã viết như sau: Từ lúc được hiến binh Nhựt đưa về Sài Gòn (10-1942) ông Huỳnh Phú Sổ gia nhập Việt Nam Phục Quốc Hội. Với vị thế đặc biệt đó, cán bộ tuyên truyền Phật Giáo Hòa Hảo đã thâu nhận thêm rất nhiều tín đồ và tiền bạc cho công quỹ cách mạng. Theo những tin tức sốt dẻo lúc đó, ông Huỳnh phú Sổ dự trù sẽ xuất dương đi Nhựt gặp Hoàng thân Cường Để, và có thể tham dự Đại Hội Phật Giáo thế giới cử hành tại Đông kinh ngày 4-7-1943, với tư cách đại diện của miền Nam Việt Nam. Trước khi lên đường, ông đã loan báo cho tín đồ biết rằng:

Khi thầy trở lại gia trung,
Thì trong bổn đạo bóng tùng phủ che...

Một số các tác giả khác, phần nhiều là giới quân sự cũng viết về thời kỳ hình thành của tổ chức bán quân sự Phật Giáo Hòa Hảo:
Thiếu tá De Mallerey đã trình bày như sau:
Năm 1942, Nhựt Bổn xen vào, yểm trợ việc giải thoát Huỳnh Giáo Chủ khỏi tình trạng biệt cư tại Bạc Liêu. Và từ đó, khuynh hướng cách mạng và gây loạn xuất hiện, các tổ chức hội họp bí mật, số người gia nhập Phật Giáo Hòa Hảo gia tăng.

Tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo nghĩ đến trang bị võ khí để thiết lập các nhóm tự vệ, gọi là Bảo An. Khởi đầu họ chỉ có võ khí bén, một ít khẩu súng săn bắn, nhưng đó là nòng cốt đầu tiên của phong trào đấu tranh quân sự sau này. (*)

Tác giả Fusier đã viết như sau:

Khi bị Pháp đưa đi biệt cư tại Bạc Liêu, ông Huỳnh Phú Sổ lại càng tăng gia uy tín đối với dân chúng miền Tây, họ nhìn ông như “một người chịu khổ cho bá tánh”.

Vào tháng 3-1942, người Nhựt bắt đầu lưu ý đến phong trào Hòa Hảo, và sau đó (10-1942) họ đưa vị Giáo Chủ về Saigon dưới sự bảo vệ của hiến binh Nhựt. Cũng cần phải ghi nhận rằng, khác với đạo Cao Đài lúc đó, Phật Giáo Hòa Hảo chỉ cộng tác với Nhựt một cách miễn cưỡng, vì ông Huỳnh Phú Sổ đã tiên đoán rằng Nhựt sẽ bại trận. (*)

Thiếu tá Savani, trong tập phúc trình “Notes sur le Phat Giao Hoa Hao” đã viết như sau: Toàn quyền Pháp ở Đông Dương muốn đưa ông Huỳnh Phú Sổ sang biệt xứ tại Ai Lao, nhưng chỉ vài ngày trước khi thi hành (10-1942), thì vài tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo với sự giúp đỡ của hiến binh Nhựt, đã cướp ông, từ Bạc Liêu đưa về Saigon. Tại Mỹ Tho, cảnh sát Pháp chận đường bắt lại, tạo ra một rắc rối ngoại giao. Bộ tư lịnh Nhựt xen vào viện cớ rằng “ông này làm gián điệp của Trùng Khánh”, để đưa ông về Saigon, cư trú tại ngôi nhà 168 đừơng Lefèbvre, dưới sự bảo trợ của hiến binh Nhựt. Mục đích của Nhựt lúc đó là lợi dụng Phật Giáo Hòa Hảo để chống lại thế lực Pháp. Hiến binh Nhựt trong vụ này tên là Kimura, tài xế lái xe tên Trần Sơn tức Ba Xạ. (**)

Đại tá Soreau, trong “Le problème Hoa Hao” đã viết như sau:

Từ 1941 đến tháng 8-1945, là thời kỳ chuyển hướng đầu tiên của hoạt động Phật Giáo Hòa Hảo. Khi nhận thấy phong trào nông dân miền Tây bỏ canh tác ruộng đất, nhà cầm quyền Pháp bắt giữ Huỳnh Giáo Chủ, đưa đi biệt cư tại Bạc Liêu. Ông trở thành “Thánh tử vì đạo” hy sinh vì đạo pháp và dân tộc. Sau đó, người Nhựt đưa ông về Saigon, ông gia nhập tổ chức cách mạng do Hoàng thân Cường Để lãnh đạo.

Do đó, Nhựt Bổn xem Phật Giáo Hòa Hảo như một lá bài chính trị của họ nhưng Phật Giáo Hòa Hảo lại không đi sát với Nhựt Bổn như đạo Cao Đài, nhờ cái nhìn sáng suốt đặc biệt của giới lãnh đạo Phật Giáo Hòa Hảo, tiên đoán được sự bại trận của Nhựt Bổn.

Cũng trong thời kỳ này, một tổ chức võ trang tự vệ được thành lập (Bảo An), với danh nghĩa bảo vệ an ninh làng xóm, bắt đầu chiếm đất, chống nhà cầm quyền, và chuẩn bị nổi loạn. (*)

Theo chỉ thị truyền khẩu từ vị Giáo Chủ và cấp Trung ương, các Ban Trị sự Phật Giáo Hòa Hảo tại địa phương, cấp Quận và Xã, đã tuyển lựa những vị Đoàn trưởng để giao phó nhiệm vụ thành lập, chỉ huy và huấn luyện các đoàn Bảo An. Đó là thời kỳ bước vào đấu tranh, mang tính chất nguy hiểm, cho nên Phật Giáo Hòa Hảo có một hệ thống truyền đạt chỉ thị bằng miệng, rất ít dùng công văn giấy tờ. Hệ thống truyền khẩu này hoạt động khá hữu hiệu, nhờ có sẵn tín đồ trung thành, kỳ cựu, đã theo vị Giáo Chủ từ năm đầu lập đạo, được Giáo Chủ tín nhiệm, và mặc nhiên được các tín đồ tin cậy. Lời nói của họ thay thế công văn và chữ viết. Họ là những chức sắc không tước hiệu sắc phục gì cả, được lịnh lên Saigon để làm việc trực tiếp bên cạnh Huỳnh Giáo Chủ. Khi đã có quyết định từ Trung ương, họ nhận khẩu lịnh của Giáo Chủ, thuộc kỹ và hiểu rõ ý nghĩa mục đích, rồi kín đáo lên đường về miền Hậu Giang. Những sứ giả này được đồng bào bảo vệ an ninh rất kỹ lưỡng, đề phòng công an cảnh sát của Pháp.

Về tới Hậu Giang, sứ giả theo hệ thống giao liên địa phương, đến các địa điểm để gặp các chức sắc có trách nhiệm và uy tín tại các địa phương. Đây thường là các ông “Quận bộ” hay “Tổng bộ” tức nhân vật đặc trách một quận hay một tổng, gồm nhiều làng hợp lại. Tín đồ kêu họ là ông Quận X, và chính các ông Quận bộ, Tổng bộ này là những mấu chốt quan trọng giữ vững giềng mối của tổ chức Phật Giáo Hòa Hảo, điều hành các công tác của tổ chức từ hạ tầng cơ sở. Tuy không có tài liệu minh thị, nhưng trong thời kỳ mà tổ chức Phật Giáo Hòa Hảo mới manh-nha-cơ-cấu-hóa, lại phải cẩn thận đề phòng sự dòm ngó của công an mật thám Pháp, cấp Quận được quan niệm như một cấp Tỉnh thâu hẹp, để dễ dàng điều hành, hơn là một địa phận rộng lớn của một Tỉnh thực sự.

Hệ thống truyền đạt bằng đi bộ, ghe xuồng, xe ngựa, hay xe đạp, hình thức truyền khẩu chỉ có thể hữu hiệu và kịp thời trên một diện tích hẹp, nên ông Quận có thể trực tiếp với cấp Xã, mà không cần cấp trung gian, vừa bảo mật vừa thân mật, hữu hiệu.

Cũng vì nhu cầu đặc biệt trong một hoàn cảnh đặc biệt như thế, cho nên thành phần Ban Trị Sự Phật Giáo Hòa Hảo nào cũng có một Ban Liên Lạc, để dẫn đường, đưa người và chuyển công văn len lỏi qua các sông rạch hay đồng ruộng. Liên lạc đi theo từng chặng đường, là phương thức rất phổ thông của tổ chức Phật Giáo Hòa Hảo. Người liên lạc địa phương hiểu rõ địa dư, hành trình, và nhứt là quy luật sanh hoạt của địch, vị trí cơ quan và nhân sự địch, nên có khả năng bảo vệ an toàn cho cán bộ hay nhân vật mà họ phải đưa đường từ địa điểm của họ tới một địa điểm kế cận, rồi họ trao trách nhiệm sang bộ phận liên lạc của trạm kế tiếp.

Trạm liên lạc được ngụy trang dưới những căn nhà của tín đồ tin cậy. Tại đây các vấn đề cơm nước, nghỉ ngơi, phương tiện di chuyển luôn luôn sẵn sàng. Phương tiện di chuyển chính yếu, ngoài đi bộ băng đồng, là xe đạp, xuồng, hay ghe tam bản loại nhỏ đi khá mau trên các sông rạch. Liên lạc viên bằng đường thủy thường hay có sẵn những ống tre dùng làm phao câu cá của đường dây câu, vừa dùng để ngụy trang, vừa dùng để dấu các tài liệu hay giấy tờ cá nhân. Khi bắt buộc phải đi ngang các đồn bót hay vị trí kiểm soát của nhà cầm quyền, họ thường bỏ giấy tờ tài liệu vào một ống tre, đậy nút thật kín, rồi thả trôi trên mặt nước, với một sợi dây câu thật dài cột vào ghe xuồng của họ đang bơi. Nếu bị khám xét, họ chỉ cần chặt bỏ sợi dây này, mặc cho ống tre trôi linh đinh, họ tìm cách trở lại vớt lấy sau. Như thế, cảnh sát không thể lục soát thấy các tài liệu trong mình họ hay trên ghe xuồng. Nếu không bị khám xét, khi đã đi qua khu vực nguy hiểm, họ phăng đường giây câu, và lấy chiếc ống tre lên xuồng. Đây chỉ là một trong các xảo thuật công tác giao liên, mà họ đã áp dụng trong hoàn cảnh khó khăn và chiến tranh.
Lấy tổ chức truyền đạt và giao liên làm điển hình, so sánh với các tiện nghi khoa học của đô thị, như điện thoại, xe hơi, máy móc văn phòng, ta thấy được sự khác biệt giữa sanh họat đô thị và nông thôn tại Việt Nam thời kỳ đó.

Tuy rằng các chỉ thị được truyền đi bằng đi bộ hay ghe xuồng hoặc truyền khẩu, nhưng ảnh hưởng lại rất mau và mạnh. Người tín đồ nào được đề cử vào trách vụ Đoàn trưởng Bảo An, xem đó là một vinh dự đặc biệt của “Đạo giao phó cho mình”. Ít nhứt anh cũng phải có hai tiêu chuẩn căn bản: được đồng đạo trong xã tin tưởng, và biết võ thuật, hay có sức khỏe đặc biệt, hoặc có tinh thần gan dạ khác thường. Đoàn trưởng đi đến từng gia đình đồng đạo, ghi tên gia nhập Bảo An của các thanh niên Phật Giáo Hòa Hảo. Tất cả đều tự nguyện, sự gia nhập đoàn Bảo An trong xã là một vinh dự, cho nên cả giới phụ nữ cũng đòi được chia sẻ niềm vinh dự ấy. Sắc phục Bảo An màu đen, gồm có bộ quần áo bà ba vải đen, trên đầu chít khăn đen, dưới chân quấn xà cạp để cho ống quần không bay phất khi tập luyện võ nghệ.

Mỗi ngày, sau bữa cơm chiều, các đội viên Bảo An đến điểm hẹn, tức một võ trường, thường là một sân đất bằng phẳng lộ thiên, ở sau nhà, cho được kín đáo, để các đoàn viên tập luyện võ nghệ. Trước nhứt là bài học căn bản về quyền thuật, rồi tiến sang các thuật đánh côn, đao, kiếm, gươm giáo... Võ khí thông dụng nhứt là cây côn, tức một cây tầm vông (loại tre nhỏ đặc ruột và nặng) được đẽo gọt trơn tru, dài bằng bề cao con người. Sở dĩ cây côn thông dụng là vì tầm vông rất dễ kiếm, trong làng chỗ nào cũng có, không tốn tiền mua hoặc phải đi xa. Nhà nào có bụi tre tầm vông, cũng sẵn sàng đem hiến cho đoàn Bảo An “làm khí giới đánh giặc.”

Trái lại, các loại võ khí bén như đao, kiếm, gươm giáo... cần phải có kim khí, và phải được trui đập tại các lò rèn. Vừa tốn tiền lại vừa dễ bị công an mật thám kết tội “tàng trữ võ khí giết người”. Tuy nhiên trong tâm trạng người đội viên Bảo An lúc đó, chỉ có cây tầm vông, thì chưa mãn nguyện. Ai cũng mong có được một cây đao hay một thanh kiếm. Thời kỳ đó, họ chưa dám nghĩ đến súng đạn, vì biết rằng giấc mơ súng đạn còn lâu lắm mới thực hiện được.

Nhưng giấc mơ “đao kiếm” của họ có thể thực hiện với một sáng kiến và cố gắng nào đó. Sáng kiến là đem cây phảng phát cỏ đến lò rèn, chuyển thành lưỡi kiếm: đánh giặc khẩn cấp hơn là làm ruộng, đó là khuynh hướng chung của tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo lúc đó. Nhưng như thế cũng không đủ cung cấp cho nhu cầu võ trang của các đoàn Bảo An. Cho nên có người nẩy ra sáng kiến đi lấy các thanh sắt tại những cây cầu sắt trên lộ giao thông. Nhiều nhóm tổ chức rủ nhau dùng cưa sắt, đang đêm lén đến gầm cầu, cưa các thanh sắt đem về. Chỉ ít ngày sau, các thanh sắt cầu này qua lò lửa, ống bễ và cây búa thợ rèn, đã biến thành những lưỡi kiếm, đao, để trang bị các đoàn Bảo An trong làng.

Trong các vùng nông thôn lúc đó, ban ngày sanh hoạt canh tác nông nghiệp vẫn diễn tiến, nhưng rời rạc hơn bình thường. Nhưng ban đêm mới biểu lộ sức sống và ước nguyện tinh thần của lớp nông dân tín ngưỡng Phật Giáo Hòa Hảo. Sau thời gian tập luyện võ nghệ khoảng một năm, những lớp thanh niên và phụ nữ Bảo An cảm thấy niềm tin tưởng và hãnh diện gia tăng. Họ chưa có ý thức nào về hình thức chiến tranh khi quân đội Pháp trở lại Đông Dương với võ khí tối tân; họ chưa thực sự hiểu được tác dụng rất giới hạn của cây tầm vông, khi đối diện với súng cá nhân và cộng đồng, với võ khí tự động và đại bác của quân đội viễn chinh Pháp. Có những tác giả hay phóng viên báo chí Tây Phương đã tỏ ra “thương hại” cho sự hiểu biết giới hạn của họ, khi họ lao đầu vào cái chết cầm chắc trước súng đạn tối tân của địch. Nhưng ngược lại, sức mạnh của những đoàn người này không phát sinh từ võ khí, mà từ tinh thần. Võ khí, cây tầm vông, cây đao, cây kiếm hay cây súng là phương tiện trợ lực cho niềm tin tưởng và hãnh diện. Nhưng đối với các đoàn viên Bảo An này, nếu phải chờ cho có cây súng mới chiến đấu, thì lịch sử Việt Nam hẳn đã đổi khác rồi.

Ở vào thời kỳ tiền cách mạng đó, vấn đề then chốt là võ trang tinh thần quần chúng. Súng đạn rồi sẽ đến sau, bằng nhiều ngả, nhiều cách, và quan trọng nhứt trong cuộc chiến tranh của nhân dân là cách “lấy súng địch làm súng mình”, theo một nguyên lý du kích chiến.

Cho nên, đối với người đội viên Bảo An Phật Giáo Hòa Hảo ở thời kỳ mới thành lập, điều đáng kể là võ trang tinh thần. Đoàn ngũ hóa, gây ý thức con người, đưa cho người ấy một cây tầm vông để tự tin rằng mình “được giao phó một nhiệm vụ thiêng liêng”, một công việc nguy hiểm đến tính mạng, mà dù có chết cũng là đền đáp ơn Đất nước, chết vinh quang để tròn nhiệm vụ ở cõi thế gian, mà được về cõi Phật sau này.

Nếu phải diễn tả động lực tâm lý và nếp suy nghĩ của các đội viên Bảo An Phật Giáo Hòa Hảo, có thể nói không sai lầm rằng đó là tâm trạng của họ ở thời kỳ chuẩn bị đấu tranh 1945.

TỪ TẦM VÔNG VẠT NHỌN ĐẾN SÚNG ỐNG
9-3-1945 là một thời điểm quan trọng trong lịch sử tranh đấu của Việt Nam, mà cũng là một biến chuyển lớn trên tiến trình quân sự hóa của tổ chức Phật Giáo Hòa Hảo.

Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo đã có thái độ thận trọng đối với Nhựt, từ trước ngày đảo chánh. Vào sau 9-3-1945, ông có tuyên bố rằng: “Việt Nam chưa có độc lập đâu, còn phải tích cực vận động mới mong thực hiện được độc lập quốc gia”. Vì tiên liệu và chủ trương lập trường như thế, cho nên ông đưa ra công thức thành lập tổ chức “Việt Nam Độc Lập Vận Động Hội” đề nghị các giới tranh đấu cùng liên kết lại. Mặt khác ông quay về nội bộ, âm thầm chuẩn bị các yếu tố chuyển tổ chức Bảo An vào giai đoạn thực sự đấu tranh quân sự.

Cái nhìn của ông lúc đó là không để sa vào cảnh “dịch chủ tái nô” do chánh sách của Nhựt Bổn. Có nghĩa là không thể chấp nhận quân phiệt Nhựt thay thế thực dân Pháp hành sử chủ quyền tại Việt Nam. Vì thế ông chủ trương vận động đưa quần chúng vào đấu tranh để ứng phó mọi biến chuyển sắp tới, kể cả võ trang kháng chiến chống lại âm mưu đem quân đội tái chiếm Việt Nam như đã biểu lộ trong lời tuyên bố của tướng De Gaulle ngày 24 tháng 3 năm 1945, tại Brazzaville.
Võ trang quần chúng, nhưng võ khí ở đâu? Cố nhiên khả năng võ nghệ, cộng thêm các loại võ khí bén thô sơ của các đoàn Bảo An, chỉ có thể đáp ứng nhu cầu sơ khởi là đoàn ngũ hóa và huy động tinh thần quần chúng, chớ không thể đủ để chiến đấu chống lại một đối thủ võ trang tối tân và đầy đủ như đoàn quân viễn chinh của Pháp.

Cuộc đảo chánh 9-3-1945 là một cơ hội chánh trị của Việt Nam, nhưng cũng là một cơ hội cho các đoàn Bảo An Phật Giáo Hòa Hảo thực hiện ước mong võ trang bằng súng đạn, có thể đến bằng hai nguồn cung cấp khác nhau. Một là bằng đường lối ngoại giao với các giới chức quân đội Nhựt để hoặc bằng tiền, hoặc bằng cảm tình, tiếp nhận một số súng đạn, mà các cá nhân hay đơn vị Nhựt có thể chuyển nhượng. Nguồn cung cấp thứ nhì là súng đạn của Pháp còn giấu diếm quanh quẩn, sau cuộc đảo chánh, hay do các toán kháng chiến Pháp bỏ thành kéo về các vùng nông thôn, các đồn điền Pháp tại Hậu Giang. Trong hoàn cảnh tuyệt vọng, cuộc kháng chiến chống Nhựt của Pháp tại miền Tây đã tan vỡ rất mau, một số võ khí bị quân đội Nhựt thâu lại, một số khác được chôn giấu vùng bưng biền rừng rậm, một số khác lọt vào tay những đoàn Bảo An Phật Giáo Hòa Hảo.

Công tác móc nối với Nhựt của Phật Giáo Hòa Hảo được thực hiện bởi một số thanh niên tín đồ mà Huỳnh Giáo Chủ đã gởi đi học Nhựt ngữ từ năm 1945. Kết quả công tác này là một số súng đạn được đưa về Hậu Giang, tuy không nhiều, nhưng cũng gây hứng khởi đặc biệt về tâm lý và sáng tạo nên những đơn vị võ trang nhỏ, làm nồng cốt đầu tiên cho công cuộc thiết lập các đơn vị võ trang sau này. Một số sĩ quan Nhựt đã đào ngũ theo về sống tại các làng miền Tây với quần chúng Phật Giáo Hòa Hảo, chớ không chịu buông súng đầu hàng theo lịnh của Thiên Hoàng Nhựt tuyên bố ngày 14-8-1945. Trong số này, có nhiều sĩ quan Nhựt đã cưới vợ Việt sống luôn tại vùng Phật Giáo Hòa Hảo, có người chết tại đây, chớ không về Nhựt. Một số khác, sau ít lâu, trở về Nhựt; có người đã trở nên nhân vật có chức quyền trong các chánh phủ Nhựt sau đó, và có trở lại miền Tây thăm viếng các thân hữu Phật Giáo Hòa Hảo.

Riêng tại miền Hậu Giang, sau cuộc đảo chánh 9-3-1945, tình hình đặc biệt sôi động trong giới Phật Giáo Hòa Hảo. Bởi vì từ đó “không còn lo sợ Pháp khủng bố nữa”, các đoàn Bảo An được tự do sinh hoạt, tập luyện quân sự mà không ngại gì mật thám Pháp. Sự phát triển tín đồ cũng tăng gia, và sự phát triển tổ chức Bảo An thêm rộng ra.

Những thủ lãnh quân sự Phật Giáo Hòa Hảo tương lai như Trần Văn Soái, Lâm Thành Nguyên, Lê Quang Vinh bắt đầu xuất hiện hoạt động trong giai đoạn này. Ông Nguyễn Giác Ngộ cũng vừa được trả tự do khỏi khám đường của Pháp.

Trong giai đoạn này, các đội viên Bảo An cấp tiến, gan dạ, bắt đầu tổ chức đi tìm súng đạn. Một số súng cá nhân mousqueton đã đoạt được của binh sĩ Pháp kháng Nhựt nhưng tuyệt vọng rã ngũ, bỏ võ khí. Một số súng săn, súng nhỏ của các viên chức hành chánh trong thời Pháp thuộc được giới Bảo An rất lưu ý.

Những viên chức xã ấp, tổng, quận, trước kia yœ thế Pháp mà hà hiếp dân chúng, được liệt vào loại cường hào ác bá, tỏ ra rất lo ngại trước tình hình mới. Một số lẹ bước bỏ làng ra lánh mặt tại đô thành. Nhiều vụ uy hiếp viên chức hành chánh đã xảy ra tại nhiều tỉnh Hậu Giang, trong chiến dịch trừng trị cường hào ác bá. Một số lãnh tụ quân sự Phật Giáo Hòa Hảo đã tham gia vào công việc này.

Những tác giả Pháp hay những viên chức của Pháp viết về vấn đề này, đã lên án rằng đây là những “hành động cướp bóc trả thù làm rối trật tự xã hội”. Một số tác giả khác cho đây là cuộc nổi dậy của nông dân giống như biến cố “Jacquerie” trong thời Trung cổ nước Pháp. Các hành động này thực sự có nguyên nhân sâu xa của nó. Đây là phản ứng tự nhiên của lớp người xưa nay bị miệt thị rẻ rúng, chèn ép bóc lột, nhưng không thể đương đầu chống lại. Ngày nay họ có cơ hội, và tự nhiên họ tìm cách thỏa mãn nỗi bực tức bị đè nén bấy lâu nay. Họ tìm đến các viên chức trước kia đã yœ thế quan quyền mà làm hại hay uy hiếp họ. Trong trạng thái tâm lý đó, có nhiều người đã có thái độ quá khích với các cử chỉ võ biền. Xét kỹ hiện tượng này, còn thấy rằng những viên chức hành chánh hay điền chủ hiền từ, không ác ôn, đã không bị phiền nhiễu, trả thù. Như thế, chứng tỏ rằng sự “nổi dậy” của các đội viên Bảo An không phải để giết người và cướp của như dư luận thường nói, mà phải xem đó là phản ứng tự nhiên của những nông dân chất phác trả đũa lại những ai đã hà hiếp và ác độc đối với họ trước kia.

Một số Quận trưởng của chánh phủ cũng bị đội viên Bảo An đến ngay văn phòng Quận (cũng gọi là dinh Quận) để trả đũa về các hành động ác ôn trước kia. Hai vị Quận trưởng Giồng Riềng (Rạch Giá) và Trà Ôn (Cần Thơ) đã bị trừng trị và kiện với chánh quyền Nhựt tại Saigon, tố cáo nhân vật Trần Văn Soái là thủ phạm “phá rối an ninh và hành động côn đồ.”

Có người cũng bình phẩm những hành động này là chịu ảnh hưởng “hành hiệp” của Thiên Địa Hội, một tổ chức nguồn gốc từ Trung Hoa của các giới phản Thanh phục Minh đến cư trú tại miền Nam từ thế kyœ 17. Người Việt miền Nam đã chịu một phần ảnh hưởng của tinh thần hành hiệp Thiên Địa Hội, khi đứng lên làm ‘’anh hùng hảo hớn, giang hồ nghĩa hiệp”. Con người của các nhân vật Trần Văn Soái, Lê Quang Vinh, ít nhiều cũng có ảnh hưởng Thiên Địa Hội, trên phương diện cá tính. Họ muốn làm “kẻ anh hùng trong dân gian”, vì nghĩa mà diệt ác.

Cây súng ở thời điểm trước biến cố 1945, được xem như bảo vật đối với người đội viên Bảo An. Vài mẩu chuyện thuật lại sau đây do bà Trần Thị Hoa, góa phụ tướng Lê Quang Vinh, cho thấy cuộc đời binh nghiệp cách mạng của ông đã khởi đầu bằng bơi xuồng chèo ghe, tranh thủ từng cây súng để dần dần tiến lên mức độ thành lập và chỉ huy cả chục ngàn nghĩa binh. ...

Anh Ba Cụt Lê quang Vinh lúc đó chèo ghe cho ông Năm (Trần Văn Soái) đi lưu động bưng biền, có hai cây súng mút Ăng Lê (mousqueton kiểu Anh) và một súng lục loại bỏ túi 7 ly, mà lấy làm hãnh diện lắm, vì thời đó ít ai có súng. Đến làng Nhơn Mỹ, ở tại nhà anh Bẩy Mía. Tây tới ruồng bố bắt anh Bẩy Mía và chị Thu Nga. Anh Ba Cụt núp lại rình bắn toán lính Tây để giải cứu vợ chồng anh Bẩy Mía, giết được hai thằng Tây, đoạt ba cây súng mousqueton..

... Về sau có ba thằng Tây đầu hàng với anh Ba Cụt tại Thơm Rơm, trao ba cây súng mousqueton và hai súng tự động. Anh lại đào thêm được một hầm chôn chín cây súng của Pháp (đây là toán kháng Nhựt rã ngũ, 1945).

... Năm 1946, Đức Thầy đòi anh Ba Cụt lên miền Đông, cùng đi với bà Xã Được. Thầy hỏi rằng: “ở dưới đó con đánh giặc có hao quân không?” Anh Ba trả lời: “Bạch thầy, con đánh Tây nhiều lần, mà tới bây giờ bên mình chưa có ai chết.” Đức Thầy cười rồi nói: “Con ráng đánh Tây, Thầy cho con súng lịnh, con ít học, sau này Thầy mở lớp dạy thêm, sức con có thể cầm binh mười ngàn...”

... Người bạn của anh Ba Cụt đã giựt cây súng của một viên chức theo Tây, tại chợ Thốt Nốt, ngay giữa ban ngày. Anh đã theo dõi biết viên chức này sắp đi chuyến đò ngang sông Thốt Nốt, anh liền xuống cùng chuyến. Khi đò ra tới giữa sông, anh kẹp cổ viên chức này, nhảy xuống sông, đoạt cây súng, rồi lặn xuống nước mà đi theo dòng sông để trốn. Lính không kịp rượt theo hay bắn theo. (*)

Tháng 8-1954, thi hành quyết định chung, Phật Giáo Hòa Hảo đảm nhận việc thành lập Đệ tứ Sư Đoàn Dân Quân Cách Mạng và đã tuyển một đội viên Bảo An nhiều đợt, mỗi đợt 500 người, tất cả trên 3.000 người đã được đưa từ miền Tây lên Saigon để thụ huấn. Những lớp huấn luyện quân sự cấp tốc này được tổ chức tại trường Mỹ Nghệ Gia Định (gọi là trường Vẽ, theo ngôn ngữ bình dân) và tại Ngã tư Bình Hòa, nghĩa địa Mạc Đĩnh Chi (Massiges). Các đơn vị này phải tự túc thực phẩm, hệ thống Ban Trị Sự Phật Giáo Hòa Hảo huy động tín đồ miền Tây hàng ngày chuyên chở lương thực: gạo, rau, gà vịt, heo đem lên Saigon tiếp tế cho những sư đoàn tương lai này. Trên các con đường phố Saigon lúc đó, dân chúng được chứng kiến quang cảnh lạ mắt của những toán Bảo An sắc phục đen, chít khăn đen, quấn xà cạp đen, mang tầm vông trên vai, xếp thành hàng ngũ bước đi chỉnh tề, dượt tới dượt lui theo tiếng đếm bước: một hai một, hai...

Trên tiến trình quân sự hóa, đây là thời kỳ hứng khởi nhứt đối với những người nông dân của đồng ruộng miền Tây, vác cây tầm vông lên thủ đô Saigon, với niềm hãnh diện đặc biệt là đã được tuyển lựa để tham gia một đại đơn vị cấp sư đoàn, nhận lãnh sứ mạng mới, bội phần quan trọng hơn công việc đã làm bấy lâu nay trong khung cảnh làng xã. Những đội viên Bảo An ấy nghĩ rằng cây tầm vông trong thời kỳ huấn luyện quân sự, rồi đây sẽ được thay thế bằng cây súng thực sự, để họ ra chiến trường bắn giặc cứu nước, và như thế là giấc mơ võ trang của họ đã được toại nguyện. Họ được đồng đạo gọi là “chiến sĩ của Đức Thầy” tức là được đức Giáo Chủ tuyển chọn. Tâm trạng của họ có thể ví với chiến sĩ tôn giáo của các đoàn quân tử chiến trong các cuộc thánh chiến thời trung cổ Tây Phương. Những chiến sĩ Bảo An này đang chuẩn bị đi vào một cuộc thánh chiến thật sự, với niềm hãnh diện và lòng tin tưởng đã được ý thức, bồi dưỡng, rèn luyện qua tiến trình đoàn ngũ hóa của phong trào Bảo An.

Trên phương diện chánh thức, không có việc Bộ Tư lịnh quân đội Nhựt ở Đông Dương hay địa phương lấy quyết định giao võ khí cho các tổ chức đấu tranh Việt Nam. Nhưng trên thực tế, đã có những vận động âm thầm và chuyển giao kín đáo một số ít võ khí súng đạn từ một số đơn vị quân đội Nhựt tại địa phương cho một vài tổ chức đấu tranh ở miền Nam.

Những vận động âm thầm này dựa trên những tương quan cá nhân và cảm tình riêng. Trong các tài liệu của văn khố quân đội Nhựt có thể được tham khảo sau này, cũng không có tài liệu nào chứng minh rằng lúc đó (1945, từ tháng 3 đến tháng 8) quân đội hay chánh phủ Nhựt tại Đông Dương đã có chánh sách giúp đỡ võ khí cho các tổ chức đấu tranh Việt Nam. Cũng vì thiếu một quyết định trên bình diện chánh sách, cho nên những võ khí Nhựt lọt vào tay các tổ chức Việt Nam, thật là ít ỏi.

Ngược lại, nếu các tổ chức cách mạng Việt Nam đã nhận được số lượng quan trọng võ khí Nhựt, thì tiềm năng kháng Pháp tất nhiên đã cao hơn, các đoàn thể quốc gia tại miền Nam đã đạt được thế chủ động đối với Pháp và Cộng Sản, thì diễn tiến thời cuộc 1945 hẳn đã đổi thay khác rồi. Bởi vì tình trạng miền Nam lúc đó có những yếu tố chủ quan khá vững chắc nếu được phối hợp với các yếu tố khách quan thích nghi với nhu cầu đặc biệt ở thời kỳ đó, đã có thể chuyển những tiềm năng quần chúng thành lực lượng chiến đấu hữu hiệu. Lúc đó thế lực Cộng Sản ở miền Nam thật chưa có gì, các tổ chức quần chúng trong miền Nam chỉ cần thêm võ khí, là dễ dàng nắm thế chủ động.

Đây cũng lại thêm một chứng nghiệm lịch sử về sự tương đồng quyền lợi giữa các đế quốc, dù là đế quốc Tây Phương hay Đông Phương, họ dễ dàng cấu kết với nhau để bảo vệ quyền lợi cho nhau, chớ không đế quốc nào có thiện chí giúp cho các dân tộc bị trị cơ hội vùng dậy lấy lại chủ quyền độc lập và tự do.

Quần chúng miền Nam không bời rời như ở miền Bắc, mà đã thực sự đoàn ngũ hóa trong hai tổ chức tôn giáo quan trọng là Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo. Quần chúng đoàn ngũ hóa bao giờ cũng có năng động tính và sẵn sàng để nhập cuộc hơn là quần chúng tâm lý mà không có tổ chức. Các đảng cách mạng xuất hiện tại miền Bắc như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Duy Dân có thể được sự đồng minh ngưỡng mộ của quần chúng, nhưng không thể chuyển động mau chóng khối quần chúng đó vào đấu tranh, vì chưa thực hiện được bước sơ khởi là đoàn ngũ hóa quần chúng.

Ngoài ra, tại miền Nam các tổ chức cách mạng mang hình thức tôn giáo, cho nên quy tụ được đông đảo quần chúng, trong khi tại miền Bắc, các tổ chức cách mạng mang hình thức chánh đảng, cho nên sự quy tụ đảng viên giới hạn hơn.

Ngoài hai tổ chức tôn giáo Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo ở vào tư thế đã đoàn ngũ hóa và sẵn sàng chiến đấu, tại miền Nam lúc đó còn có phong trào Thanh Niên Tiền Phong, và vài tổ chức võ trang, tuy ít người nhưng cũng đã chuẩn bị sẵn sàng để nhập cuộc chiến đấu. Đó là tổ chức Bình Xuyên, tổ chức Nghĩa Sĩ Đoàn, tổ chức Thanh Niên Ái Quốc Đoàn, tổ chức Dân Quốc Quân của Việt Nam Quốc Dân Đảng miền Nam, nhóm Đệ Tứ, đảng Quốc Gia Độc Lập với thành phần trí thức miền Nam.

Riêng đảng Cộng Sản đệ tam rất yếu thế tại miền Nam, lúc đó chưa có quần chúng tổ chức, chưa có đơn vị võ trang, chỉ mới có một số cán bộ là Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Giàu, sau được tăng cường lớp cán bộ vừa được thả ra từ các khám đường như Lê Duẫn, Phạm Hùng được chỉ thị ở lại miền Nam hoạt động, chớ không trở về thẳng miền Bắc.

Lập luận trên đây có thể được chứng minh bằng sự kiện xẩy ra tháng 8-1945, một cuộc hội nghị quân sự tại Saigon đã lấy một quyết định thành lập bốn sư đoàn dân quân, bằng cách giao phó cho mỗi tổ chức có quần chúng đảm nhận việc chiêu mộ quân sĩ để hình thành các sư đoàn. Sự phân phối như sau:
Dân Quân Cách Mạng Đệ Nhứt Sư Đoàn do giới cựu chiến binh và Bình Xuyên đảm trách.
Dân Quân Cách Mạng Đệ Nhị Sư Đoàn do Cao Đài đảm trách với số tín đồ Cao Đài đã được huấn luyện quân sự bởi tổ chức Heiho (các tướng Nguyễn Thành Phương, Trình Minh Thế đều xuất thân từ tổ chức này).
Dân Quân Cách Mạng Đệ Tam Sư Đoàn do Nguyễn Hòa Hiệp đảm trách (tướng Nguyễn Hòa Hiệp là đảng viên Quốc Dân Đảng miền Nam, đã có kiến thức căn bản về quân sự, lúc đó đã có sẵn tổ chức Dân Quốc Quân, cùng liên kết với các tổ chức khác để hình thành Đệ Tam Sư Đoàn).
Dân Quân Cách Mạng Đệ Tứ Sư Đoàn do Phật Giáo Hòa Hảo đảm trách, với tổ chức Bảo An đã được đoàn ngũ hóa, rèn luyện võ nghệ và huấn luyện cơ bản về quân sự.
Việc thành lập bốn đại đơn vị dân quân này đang tiến hành, thì thời cuộc thay đổi dồn dập, Nhựt hoàng tuyên bố đầu hàng, rồi quân đội viễn chinh Pháp theo chân quân đội Anh của tướng Gracey tới Saigon, đồng thời Trần Văn Giàu lợi dụng vị thế Chủ tịch ủy ban Hành chánh Nam Bộ, trở mặt, giở ngón độc tài đảng trị, và đàn áp Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo. Cho nên bốn sư đoàn này đã bị chết non trong thời kỳ chuẩn bị.

Nếu những chiến sĩ ấy của các sư đoàn Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, Việt Nam Quốc Dân Đảng mà đã nhận được số lượng võ khí súng đạn chuyển từ quân đội Phù Tang ở miền Nam sang, đủ để trang bị các sư đoàn dân quân này, thì khả năng chiến đấu của miền Nam chống lại đoàn quân viễn chinh Pháp đã được tăng lên rất cao, đã có thể không để miền Nam lọt vào thế chủ động của Pháp và Cộng Sản đệ tam, rồi từ đó, đã có thể làm cho cuộc diện Việt Nam thay đổi khác hẳn.

Chánh sách diệt trừ Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo do cán bộ Cộng Sản đệ tam Trần Văn Giàu thi hành ngay từ tháng 9-1945, đã làm tan vỡ kế hoạch bốn sư đoàn. Các thành phần quân sự Cao Đài, và Phật Giáo Hòa Hảo rút về khu vực ảnh hưởng của mình, riêng Đệ Tam Sư Đoàn chưa được tăng cường, phải rút về Cao Lãnh (Sa Đéc) tức Đồng Tháp Mười, để yểm trợ Phật Giáo Hòa Hảo chống lại chánh sách khủng bố dữ dội của Cộng Sản, sau đó phải tế phân thành các đơn vị nhỏ, rồi biến dạng trên chiến trường miền Nam.

Các chi tiết nêu trên để chứng minh lập luận rằng vì các nỗ lực vận động võ khí của quân đội Nhựt lúc đó không thành công, nên các tổ chức quần chúng miền Nam đã không thể sớm vượt qua giai đoạn “tầm vông vạt nhọn” để có những đơn vị võ trang kháng chiến quan trọng được...

Câu chuyện sau đây là một trường hợp khá đặc biệt về những liên hệ giữa giới quân nhân Nhựt và tổ chức đấu tranh Việt Nam khi Nhựt đầu hàng.

Đại tướng Sato, Tổng Tư lịnh Quân đội Thiên Hoàng ở Đông Dương đã đặc biệt cho phép một viên trung úy tên là Nam tước Watanabe Hitomi được đào ngũ với sứ mạng bí mật là đem võ khí trao cho một đơn vị quân sự của Đại Việt Quốc Dân Đảng, tổ chức này đã cộng tác chặt chẽ với Nhựt từ mấy năm qua.

Trung úy Watanabe Hitomi đã liên lạc với Bộ Chỉ huy bộ đội An Điền do Bùi Hữu Phiệt chỉ huy, lúc đó đang đóng binh tại xã Tăng Nhơn Phú (Thủ Đức, phía bắc Saigon), và đã hướng dẫn một số chiến sĩ trong bộ đội An Điền đến khu rừng cao su Bình Thắng tức một căn cứ hậu cần của quân đội Nhựt lúc đó, trong địa phận tỉnh Thủ Dầu Một (tức Bình Dương sau này), để đào một hầm võ khí tại đây.

Lúc đó vào khoảng tháng 10-1945, quân Pháp đã chiếm thủ đô Saigon, các bộ đội kháng chiến bỏ thành ra các vùng ngoại ô. Bộ Tư lịnh quân đội Nhựt phải khai nạp võ khí với Bộ Tư lịnh của tướng Gracey thay mặt quân đội Hoàng gia Anh Quốc đến miền Nam Việt Nam thi hành ủy nhiệm của đồng minh để giải giới quân đội Nhựt.

Ngoài những võ khí đã chánh thức khai nạp căn cứ theo sổ sách chánh thức, còn có những võ khí “ngoài sổ sách” được sử dụng tùy theo quyết định của viên Tư lịnh. Có người khai nạp luôn cho quân đội Anh, nhưng cũng có người đem chôn hay dấu với mục đích riêng. Đây là những cấp sĩ quan Nhựt có liên hệ với cá nhân hoặc tổ chức đấu tranh Việt Nam, đã nhận được những lời yêu cầu giúp đỡ võ khí. Cho nên họ đã cất giấu số võ khí “ngoài sổ sách” rồi sau đó tìm cách trao lại cho thân hữu Việt Nam của họ, như trường hợp trung úy Watanabe Hitomi đã trao hầm súng tại Bình Thắng cho bộ đội An Điền.

MỘT CHÚT LỊCH SỬ VỀ BỘ ĐỘI AN ĐIỀN
Đại Việt Quốc Dân Đảng hoạt động tại miền Bắc (thành lập năm 1945 bởi lãnh tụ Trương Tử Anh) chủ trương dựa vào Nhựt Bổn để có sức mạnh chống Pháp và đòi lại chủ quyền độc lập của Việt Nam. Sau đảo chánh 9-3-1945, Trung ương Đảng Đại Việt đưa một phái đoàn từ miền Bắc vào Nam hoạt động, thành phần gồm các sinh viên gốc miền Nam du học tại Đại học Hà Nội.

Các hoạt động thuần túy chánh trị cần phải chuyển sang võ trang kháng chiến, nên một sinh viên luật khoa đảng viên Đại Việt tên Trần Văn Quới vừa từ Hà Nội trở về quê hương tại tổng An Điền quận Thủ Đức, được giao phó nhiệm vụ mộ quân để thành lập đơn vị quân sự, đơn vị này vì thế mang danh là Bộ đội An Điền. Khi Trần Văn Quới nhận chỉ thị trở ra Bắc, chức quyền tư lịnh bộ đội An Điền được giao phó cho một chánh trị phạm tên là Bùi Hữu Phiệt vừa được trả tự do từ Côn Đảo trở về, cùng một lần với các lãnh tụ Thanh Niên Ai Quốc Đoàn, như Đinh Khắc Thiệt, Hồ Nhựt Tân...

Nhờ mối liên hệ trước giữa Đại Việt và Nhựt Bổn, nên bộ đội An Điền được giúp một số võ khí ngoài sổ sách do trung úy Watanabe Hitomi trao lại. Viên trung úy Nhựt này không ra trình diện với quân đội Anh, mà ở lại chiến khu miền Đông, gia nhập bộ đội An Điền dưới cái tên mới là “Anh Bê”, với sắc phục du kích quân bà ba đen, vẫn đeo bên hông khẩu súng lục Chiêu Hòa và thanh gươm gia truyền được Nhựt hoàng ban tặng cho dòng họ quý phái Watanabe.

Bộ đội An Điền sau liên minh với tổ chức Bình Xuyên tại chiến khu miền Đông, và đổi tên thành Trung đoàn 25 Liên khu Bình Xuyên, do Bùi Hữu Phiệt làm tư lịnh, và một nhân vật Bình Xuyên là Tư Tÿ làm phó tư lịnh, hợp thành khối quân sự của Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp ra đời ngày 26-4-1946 tại chiến khu Bà Quẹo (phía đông Saigon), với chủ tịch là Hoàng Anh, một bí danh của Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo.

Trong thời kỳ này, giữa các đơn vị võ trang của Phật Giáo Hòa Hảo và bộ đội An Điền, có sự hợp tác chặt chẽ, giao tình thân thiết, cũng như giữa Huỳnh Giáo Chủ với Bùi Hữu Phiệt và các lãnh tụ tổ chức Bình Xuyên.

Khi thế quân sự của Việt Minh đã mạnh ở miền Nam, tướng Nguyễn Bình tư lịnh Kháng chiến Nam bộ đã hạ sát Bùi Hữu Phiệt và cả Bộ Tư lịnh An Điền tại Rừng Sát, để chiếm toàn quyền thao túng trung đoàn 25 Bình Xuyên. Có những người sống sót của bộ đội An Điền về miền Tây cộng tác với Phật Giáo Hòa Hảo như nhà cách mạng Hồ Nhựt Tân, chuyên viên quân sự Lưu Nhất... Riêng Trung úy Nhựt Watanabe Hitomi tức anh Bê, thì số phận về sau ra sao, không ai rõ.

Những sự việc thuật trên đây cho thấy rằng trong công tác vận động quốc tế, liên hệ cảm tình cá nhân tuy cần thiết, nhưng chỉ có tác dụng mở đường dẫn nhập, hay giải quyết các vấn đề cục bộ, nhứt thời; đại sự muốn thành phải đạt được sự yểm trợ của một chính quyền trên bình diện và trong khuôn khổ chánh sách quốc gia.

Chứng nghiệm lịch sử khá rõ ràng: sức mạnh của Cộng Sản Việt Nam là do sự bồi dưỡng của đế quốc Nga sô liên tục, bền bỉ duy trì suốt mấy chục năm, trong khi các tiền bối cách mạng Phan Bội Châu, Cường Để nhờ cậy một số nhân vật Nhựt Bổn, Việt Nam Quốc Dân Đảng nhờ cậy một số nhân vật Trung Hoa chỉ được giúp đỡ nhất thời, cục bộ mà thôi.

Nếu chính phủ Nhựt năm 1945 có chánh sách giúp đỡ võ khí cho các tổ chức đấu tranh Việt Nam, ắt là cuộc diện Việt Nam đã khác hẳn.

Diển Tiến Thời Cuộc

Sau đây là tóm lược các biến cố quan trọng đã xảy ra trong thời kỳ xáo trộn 9-3-1945:
§         9-3-45: Nhựt lật đổ chánh quyền Pháp ở Đông Dương.
§         10-3-45: Nhựt thiết quân luật trên toàn cõi Đông Dương.
§         10-3-45: Đảng Việt Nam Quốc Gia được thành lập do Hồ Văn Ngà cầm đầu. Đảng này xuất xứ từ Nhân Dân Cách Mạng Đảng, Việt Nam Quốc Gia Đảng do Phan Khắc Sửu, Võ Oanh, Trần Quốc Bửu, Trần Văn An, Ngô Đình Đảu, Nguyễn Văn Sâm đã thành lập.
§         12-3-45: Hoàng đế Bảo Đại ra tuyên cáo hủy bỏ tất cả hiệp ước bất bình đẳng đã ký với Pháp ngày 6-6-1862 và ngày 15-8-1884.
§         18-3-45: Một cuộc biểu tình tổ chức tại Vườn Ông Thượng với trên 50.000 người tham gia gồm tất cả các đảng phái. Trên bàn thờ Tổ Quốc có để di hài nhà ái quốc Dương Bá Trạc do ông Trần Văn Ân từ Chiêu Nam gởi về. Nhơn cơ hội này đảng “Việt Nam Quốc Gia” đổi thành “Việt Nam Quốc Gia Độc Lập.”
§         24-3-45: De Gaulle đọc tuyên ngôn Brazzaville về các thuộc địa của Pháp.
§         17-4-45: Chánh phủ Việt Nam Độc Lập ra đời do Trần Trọng Kim lãnh đạo lấy khảu hiệu “Dân Vi Quý” làm nguyên tắc chỉ đạo.
§         5-45: Nạn đói khủng khiếp hoành hành ở Bắc Việt, hằng triệu người chết do Pháp phá hoại.
§         12-6-45: Thanh Niên Tiền Phong ra mắt đồng bào và biểu diễn tại các đường phố Saigon.
§         6-8-45: Mỹ thả bom nguyên tử xuống Hiroshima và hai ngày sau xuống Nagasaki.
§         14-8-45: Đáp lời kêu gọi của Hồ Văn Ngà, Đức Huỳnh Giáo Chủ, Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân, Trần Văn Thạch v.v... để liên kết tất cả các đảng phái, “Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt” ra đời.
§         15-8-45: Nhựt đầu hàng Đồng minh.
§         15-8-45: Cao Ly tuyên bố độc lập.
§         17-8-45: Nam Dương tuyên bố độc lập.
§         21-8-45: Trên 200.000 người gồm tất cả các giới biểu tình do Mặt trận Quốc gia Thống nhứt tổ chức và tuần hành qua các đường phố.
§         8-1945: Chánh quyền Nam Kỳ được nhà cầm quyền Nhựt giao trả cho Chủ tịch Hội Đồng Nam Kỳ Trần Văn An. Trần Văn An bổ nhiệm Hồ Văn Ngà làm phó Khâm sai Nambộ, trong lúc Khâm sai Nguyễn Văn Sâm chưa về tới.
§         22-8-45: Sau một cuộc biểu tình trước nhà hát lớn Hà Nội, Việt Minh đoạt chính quyền.
§         23-8-45: Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố thoái vị.
§         24-8-45: Tổng Bộ Việt Minh phái Cao Hồng Lãnh và Hà Bá Cang tức Hoàng Quốc Việt vô Nam tăng cường, vì lúc bấy giờ ảnh hưởng Việt Minh trong dân chúng hình như không có ở miền Nam.
§         25-8-45: Bảo Đại trao quyền cho đại biểu Việt Minh là Trần Huy Liệu.
§         25-8-45: Việt Minh cướp chánh quyền bằng cách tuyên bố danh sách Lâm ủy Hành chánh Nam bộ gồm có tên chín ủy viên và Trần Văn Giàu tự phong làm chủ tịch sau một cuộc biểu tình.
§         2-9-45: Hà Nội và Saigon đều biểu tình và tuyên bố Việt Nam độc lập. Hồ Chí Minh ra mắt đồng bào ở Bắc.
§         7-9-45: Các đảng Quốc gia và nhóm Đệ Tứ phản đối và đả đảo Lâm ủy Hành chánh, Trần Văn Giàu nhượng bộ, mở rộng thành phần và Phạm Văn Bạch được cử làm Chủ tịch do sự giới thiệu của Dương Văn Giáo và Trần Văn Ân.
§         8-9-45: Biểu tình Phật Giáo Hòa Hảo tại Cần Thơ chống độc tài và ủng hộ Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất.
§         9-9-45: Trần Văn Giàu bao vây trụ sở Việt Nam Độc Lập Vận Động Hội ở đường Miche để bắt Chủ tịch là Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ nhưng bắt không được.
§         13-9-45: Công an của Giàu do Lý Huê Vinh cầm đầu tìm bắt Vũ Tam Anh ở xóm Thơm và các nhân sĩ Quốc gia như Hồ Văn Ngà, Trần Quang Vinh, Lương Trọng Tường, và lãnh tụ đảng Lập Hiến Bùi Quang Chiêu.
§         13-9-45: Tướng Anh là Douglas Gracey đến Saigon để giải giới quân Nhựt từ vĩ tuyến 16 trở xuống.
§         15-9-45: Tướng Lư Hán đến Hà Nội giải giới quân đội Nhựt từ vĩ tuyến 16 trở lên.
§         6-9-45: Quân Pháp lần đầu tiên đổ bộ Saigon.
§         18-9-45: Tướng Gracey không nhìn nhận Lâm ủy nên Giàu phải mời Trần Văn Thạch, Huỳnh Văn Phương và bà Hồ Vĩnh Ký tức Nguyễn Thị Sương lập ủy ban Ngoại Giao để tiếp xúc với Đồng Minh.
§         21-9-45: Tướng Gracey tiếp xúc với ủy viên Cộng hòa Pháp Đại tá Cedille và ra lệnh cấm báo Việt ngữ, và thông cáo xử tử những kẻ âm mưu phá hoại.
§         >22-9-45: Tướng Gracey thả hết phạm nhân Pháp và phát khí giới nói là để hộ thân.
§         23-9-45: Quân Pháp tấn công các bót và cơ sở Hành chánh Nam bộ.
§         24-9-45: Bốn sư đoàn Dân quân Cách mạng nhứt tề đứng dậy cùng với đồng bào các giới chống lại quân Pháp bằng các võ khí thô sơ. Trang lịch sử Nam bộ kháng chiến bắt đầu.
§         25-9-45: Lâm ủy Hành chánh bị quân đồng minh do tướng Gracey cầm đầu đuổi ra khỏi Dinh Gia Long. Saigon hoàn toàn trong cảnh chiến tranh không đèn, không nước, dân quân cùng quân Pháp và chà chóp tranh nhau từng tấc đất từng căn nhà.
§         16-9-45: Lâm ủy Hành chánh rút về chợ Đệm không kèn không trống. Các lực lượng Quốc gia liều chết chống xâm lăng. Một ủy ban phong tỏa Saigon được thành lập do Nguyễn Văn Sâm, Kha Vạng Cân, Trần Văn Ân, Hồ Văn Ngà.
§         27-9-45: Saigon bị bao vây, lửa đỏ rực trời, vật thực khan hiếm. Chánh phủ ra lệnh tản cư đàn bà trẻ em và người già. Chiến tranh du kích được tổ chức khắp nơi và ủy ban Nhân dân đổi tên lại là “ủy ban Hành chánh Kháng chiến” do Phạm Văn Bạch làm chủ tịch.
§         27-9-45: Một số lãnh tụ Quốc Gia nhóm họp ở Cholon theo đề nghị của Dương Văn Giáo thành lập “Chánh Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Quốc” để tổ chức kháng chiến.
§         27-9-45: Đại tá điệp viên Mỹ là Peter Dewey bị ám sát ở Tân Định.
§         28-9-45: Đại tá Cedille dụng kế hoãn binh và vận lương thực cho quân đội Pháp yêu cầu ngưng bắn.
§         30-9-45: Cuộc thương thuyết Việt-Pháp về hưu chiến nhóm họp, bên Việt có Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thạch. Phía Pháp có đại tá Repiton Preneuf.
§         1-10-45: Hưu chiến Việt-Pháp bắt đầu ở Saigon. Pháp yêu cầu hưu chiến.
§         5-10-45: Đại tướng Leclerc đến Saigon.
§         8-10-45: Lúc hưu chiến được ban hành, những đoàn Dân quân, lực lượng Bình Xuyên, Thanh Niên Đoàn, tổ chức lại hàng ngũ và chiếm các yếu điểm như các đầu cầu, các trục giao thông, đợi lệnh.
§         8-10-45: Nhơn lúc này bộ máy công an Việt Minh bủa vây tất cả các chiến sĩ cách mạng quốc gia để diệt trừ đối lập: Hồ Văn Ngà, Dương Văn Giáo, Huỳnh Văn Phương, Trần Quang Vinh, Bùi Quang Chiêu đều bị bắt, và có người bị sát hại ngay. Tất cả đảng viên nòng cốt Đệ Tứ đều bị chôn sống ở sông Lòng Sông (Bình Thuận) Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Phan Văn Chánh, Nguyễn Văn Sổ, Phan Văn Hóa, Trần Văn Sĩ, Nguyễn Văn Soái, Nguyễn Văn Tiền v.v...
§         10-10-45: Hết hạn hưu chiến. Dân Quân xiết chặt vòng vây kinh tế và tổ chức củng cố hàng ngũ không cho quân Pháp ra ngoại ô Saigon.

Việt Minh Cộng Sản Sát Hại Các Lảnh Tụ Quốc Gia
Qua những diễn tiến liệt kê trên đây, ta thấy trong hai tháng 9 và 10 năm 1945, Cộng Sản Việt Minh tại miền Nam đã thất bại trên mặt trận ngoại giao, bất lực trên mặt trận quân sự chống quân đội Pháp, nhưng khi rảnh tay được như trong thời gian hưu chiến từ 8-10-1945, là quay về dùng bộ máy công an để thanh toán các phần tử quốc gia yêu nước nhưng không đồng chánh kiến. Bởi vì lúc đó Cộng Sản biết rằng họ đang còn ở thế yếu, nếu không sớm thanh toán hết đối lập, sợ rằng phe quốc gia có thể vươn lên nắm lại tình thế thì họ không thể nào đủ sức đối phó với Pháp ở phía trước, phe quốc gia ở phía sau. Cho nên họ đã áp dụng chiến thuật tạm hòa hoãn với Pháp để triệt đối lập trước đã.

Chiến thuật này Cộng Sản Đệ tam vẫn tiếp tục áp dụng về sau tại Bắc Kỳ, ký kết hiệp định sơ bộ 6-3-1946 với Pháp và đàn áp các đảng Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng để nắm lấy độc quyền lãnh đạo.

Trong miền Nam, Cộng Sản Việt Minh trước hết đàn áp hai tôn giáo Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, sau đó diệt các lãnh tụ nhóm Đệ Tứ, đảng Việt Nam Quốc Gia Độc Lập, đảng Lập Hiến và một số nhân sĩ. Khi đối phó với các tổ chức có quần chúng, Cộng Sản Việt Minh còn gặp phản ứng, nhưng đối với các nhân sĩ và các lãnh tụ Đệ Tứ, Việt Nam Quốc Dân Đảng, bộ máy công an võ trang của Việt Minh chỉ cần chờ khi nào Pháp tấn công phía trước, các giới đối lập tản cư về hậu phương, là đến bắt từng người, không lo ngại phản ứng nguy hiểm nào.

Kế hoạch ruồng bắt đối lập đã được Việt Minh hoạch định sẵn, thi hành chớp nhoáng: chỉ trong mấy ngày hưu chiến với Pháp, công an võ trang đã bắt trọn tất cả các lãnh tụ tên tuổi của nhóm Đệ Tứ như Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh, Nguyễn Văn Sổ, và 64 cán bộ Đệ Tứ đang lui về vùng Thủ Đức. Sau đó, họ sát hại tất cả. Sở dĩ nhóm Đệ Tứ bị sát hại toàn bộ như thế là vì họ đã chọn thái độ “thà chết chứ không bỏ ra thành”. Thái độ này được quyết định qua một cuộc thảo luận và bỏ thăm trong một cuộc hội nghị có mặt 68 lãnh tụ và cán bộ khi rút lui về Thủ Đức.

Riêng lãnh tụ Tạ Thu Thâu, một nhân vật sáng giá xuất sắc của nhóm Đệ Tứ, ông đã bị Cộng Sản hạ sát tại Quãng Ngãi. Ông từ Nam ra Bắc, và khi về đến Quãng Ngãi thì bị ủy ban Cách mạng Việt Minh bắt giữ rồi thủ tiêu tại cánh đồng Dương Liễu trên bờ biển Mỹ Khê, vào tháng 9-1945. Lúc ấy lãnh tụ Tạ Thu Thâu mới 39 tuổi.
Theo tài liệu của nhóm Đệ Tứ (Đỗ Bá Thế, Phương Lan) thì chính Trần Văn Giàu đã hạ lịnh thủ tiêu Tạ Thu Thâu, mặc dầu Thâu là thầy học của Giàu, đã tận tình giúp đỡ Giàu khi còn du học bên Pháp, coi Giàu như nghĩa đệ của mình. Giàu phải giết Tạ Thu Thâu vì biết ông vượt hẳn mình về mọi phương diện: tài ba, đức độ, uy tín, nhưng lại không chịu đứng chung phe Cộng Sản Đệ tam. Giàu giết Thâu là giết một đối thủ lợi hại, trừ hậu hoạn.

Ông Hồ Tá Khanh, nguyên Bộ trưởng Kinh tế Nội các Trần Trọng Kim 1945, người cùng du học bên Pháp với Tạ Thu Thâu và Trần Văn Giàu, đã ghi chú như sau về cái chết của Tạ Thu Thâu:

“Tôi gặp anh Thâu lần chót tại Huế khi anh ở Bắc trở vô, lối vài tuần trước khi anh bị bắt tại Quãng Ngãi. Tôi vừa ra khỏi tù Việt Minh (đồn Hội An) trở ra Huế, ở vài ba tuần, rồi cùng với Trần Văn Văn và Trần Đình Nam vô Touranne, rồi Qui Nhơn, Phan Thiết, Saigon. Lúc tôi đến Qui Nhơn thì có Vĩnh Huyên (con Bửu Du và thơ ký văn phòng của Bộ Kinh tế của tôi) cho hay: ‘’Hôm qua ông Thâu bị bắt tại Quảng Ngãi”. Sáng ra, trước khi đi về Nha Trang, tôi chạy lại trụ sở tỉnh Việt Minh bảo anh cán bộ ở đó đánh điện ra Trung ương Hà Nội nói Hồ Tá Khanh phản kháng vụ bắt anh Thâu. Thật là điếc không sợ súng.

Vào đầu năm 1946, tôi đang trở ra ở nhà ông bạn Trần Đình Nam, thì con trai của ông Nguyễn An Ninh lại mách rằng: “Chú Thâu đã bị giết vì chú ghé Quãng Ngãi muốn gặp tôi cho tôi nghe lời trối trăn của cha tôi. Chúng nó cấm nói ông Thâu bị giết, nếu nói thì phản tuyên truyền...” (Hồ Tá Khanh ghi chú).

Cái chết của Tạ Thu Thâu được xem là một biến cố quan trọng bởi vì ông là một lãnh tụ suốt đời hy sinh cho cách mạng, mấy lần bị Pháp lên án tù đến tàn phế thân thể, một chiến sĩ can trường không bao giờ lui bước trước trở lực, lại là một nhân tài xuất chúng, một con người đức độ, được bạn bè yêu mến, kể cả giới ngoại quốc. Sở dĩ phải nói nhiều về cái chết của Tạ Thu Thâu, là vì trường hợp của ông chứa đựng những điểm điển hình để ta nhận xét về chánh sách tiêu diệt của Cộng Sản Đệ tam.

Yêu nước, có tài, có uy tín, gan dạ, bền chí, một lãnh tụ có các đức tính này phải được xem là một cái vốn quý của dân tộc cần thiết cho công cuộc cứu nước dựng nước. Nhưng đối với Cộng Sản Đệ tam, các đức tính này, nếu không đặt dưới sự sử dụng của họ để phục vụ cho mục tiêu của họ, thì sẽ là mối hại cho họ. Cho nên phải tiêu diệt.

Có rất nhiều bằng chứng cho lập luận trên đây. Điển hình là vụ Hồ Chí Minh bí mật báo cáo với sở tình báo Pháp tại Thượng Hải để bắt chí sĩ Phan Bội Châu (1925, Pháp đưa chí sĩ họ Phan về nước, lên án tử hình). Một bằng cớ khác là tài liệu của Cộng Sản Hà Nội ghi lại những chỉ thị của Hồ Chí Minh đối với phe độc lập, luôn luôn là phải “tiêu diệt”. “Không thỏa hiệp, không nhượng bộ, phải dùng mọi cách để vạch mặt chúng, phải tiêu diệt chúng về mặt chính trị” (Nguyên tác “Il faut les exterminer politiquement”, nhưng ta phải hiểu thế nào là “exterminer politiquement” đối với các lãnh tụ cách mạng. Chữ exterminer, tự điển nào cũng có nghĩa là tiêu diệt”.

Cho tới đầu năm 1946, lãnh tụ và cán bộ Đệ Tứ Quốc tế đã bị Cộng Sản Đệ tam tiêu diệt (nói đúng là sát hại), trong đó có các lãnh tụ xuất chúng về tài ba, đã nổi bật như những ngôi sao sáng của sinh hoạt chính trị tranh đấu miền Nam trong thập niên 30, 40: Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Phan Văn Chánh, Huỳnh Văn Phương.

Tài liệu sau đây là cuộc đối thoại giữa một trí thức Việt Nam với Hồ Chí Minh, tại Paris năm 1946, khi Hồ Chí Minh sang Pháp ký thỏa hiệp án (modus vivendi) với Marius Moutet ngày 14-9-1946.

Hoàng Đôn Trí là anh hay em của Hoàng Đôn Văn, có mặt người bạn Lê Văn. Hoàng Đôn Văn là cựu Bộ trưởng Lao động Chánh phủ Việt Minh năm 1945. Hoàng Đôn Tri, Kỹ sư trường Trung ương (Ecole Centrale, Paris) thuộc phe Trần Đức Thảo, Hoàng Xuân Hãn, Tổng ủy ban Việt Kiều tại Pháp năm 1944-45.
Năm 1946, lúc Hồ Chí Minh qua Pháp, Hoàng Đôn Tri có xin gặp, và sau khi nói chuyện đó đây, Đôn Tri cung kính thưa:
— Tôi là người học trò cũ của Tạ Thu Thâu. Tôi cho Thâu là người tốt nhứt, Thâu yêu nước vô cùng và nhứt là yêu hạng người nghèo khó. Thưa Chủ tịch, tại sao Thâu bị giết và ai giết?
Hồ Chí Minh sau một phút suy nghĩ, và lấy làm lạ sao có câu hỏi như vậy:
— Phải, Tạ Thúc Thâu (tôi không hiểu tại sao lại gọi Thúc) là người tốt. Thâu bị giết lầm. Mà tại sao anh lại đặt câu hỏi ấy? Tại sao lại gợi lên sự chia rẽ lúc này, giữa lúc có hàng vạn người chết vì nước?
— Thưa Thâu không phải là một cá nhân, Thâu đại diện cho một trào lưu tư tưởng, một nếp sống, một lối hành động vì nhân dân mà hàng vạn vạn người quan tâm. Sự mờ ám (về cái chết của Thâu) gây chia rẽ chớ không phải sự làm sáng tỏ.
Hồ Chí Minh không trả lời thẳng mà nói:
— Anh còn trẻ và biệt tín lắm!
— Thưa không...
Rồi chủ tịch cho tôi một trái pomme lớn để chấm dứt câu chuyện.

Thái độ “lấp lửng” với những câu trả lời “mập mờ” và xảo thuật “tránh đi vào đề”, viện nhu cầu “tránh chia rẽ”... của Hồ chí Minh qua cuộc đàm thoại này, một mặt tố cáo bản chất xảo quyệt tinh ma của con người Hồ Chí Minh, mặt khác xác nhận Cộng Sản Đệ tam đã sát hại lãnh tụ Tạ Thu Thâu.
3- Phong Trào Truy Lùng Và Xử Án Việt Gian

Có lẽ sáng kiến “Việt gian” phát sinh từ kinh nghiệm mà Cộng Sản Việt Nam đã thâu nhận được qua cuộc cách mạng vô sản tại Nga Sô (1917), nhất là dưới trào Stalin dùng chánh sách khủng bố đẫm máu để tiêu diệt đối lập. Stalin có trùm Mật vụ Béria, thì năm 1945 tại miền Nam Trần Văn Giàu có Nguyễn Văn Trấn, Giám đốc Quốc gia Tự vệ cuộc, tức tổ chức công an mật vụ lệ thuộc Lâm ủy Hành Chánh Nam Bộ, tức lệ thuộc Trần Văn Giàu.

Đồng thời với hành động tiêu diệt nhóm Đệ Tứ ở miền Nam, Cộng Sản Việt Minh lúc đó còn tiêu diệt rất nhiều chiến sĩ có khuynh hướng quốc gia trong các tổ chức chánh trị, tôn giáo và nhân sĩ độc lập.

Tổng hợp các tài liệu về cuộc tàn sát 1945-1946, có những ghi nhận sau đây của nhân vật Trịnh Hưng Ngẫu trong tài liệu: “Tặng thế hệ nay và mai sau.”

Trần Văn Giàu, Chủ tịch ủy ban Hành chánh Nam bộ, chạy thoát sang Bangkok (Thái Lan) và gặp tôi ngày 13-6-1946. Trần Văn Giàu thú nhận rằng chính hắn ra lịnh thủ tiêu gần hai ngàn năm trăm (2.500) cán bộ quốc gia trong mấy tháng nắm chánh quyền. Hắn và đồng bọn may mắn thoát khỏi miền Nam, nếu không khó tránh được hậu quả của hành động tàn sát đó, vì hắn đã gieo quá nhiều hận thù...

Thường bọn công an Cộng Sản, cuối 1945, phao đồn rằng những người bị thủ tiêu đó là Việt gian. Sự thật là bọn chúng gán tội Việt gian nhằm đánh lạc hướng dư luận; sau khi đã “cho mò tôm”, lại còn rỉ tai nói là “đi công tác phương xa”.

Cộng Sản tàn sát các phần tử quốc gia đặng tạo khống khuyết lãnh đạo trong hàng ngũ quốc gia, rồi thay thế bằng cán bộ Việt Minh để thi hành chánh sách của chúng. Chủ trương dài hạn của Cộng Sản Đệ tam thực hiện trên căn bản lý luận là “cán bộ lãnh đạo không thể thay thế trong một thế hệ”, cho nên chúng tiêu diệt các phần tử lãnh đạo của giới quốc gia là tiêu diệt cái đầu lãnh đạo trong nhiều thế hệ.

Phong trào truy lùng và xử án Việt gian khởi đầu ở miền Nam năm 1945, sau lan tràn ra miền Bắc mấy năm đầu kháng chiến, là một cơn ác mộng kinh hoàng giống như trong đợt đấu tố cải cách ruộng đất mà Cộng Sản thi hành năm 1956-1957 ở miền Bắc. Ai bị gán tội Việt gian thì khó thoát khỏi chết. Phần nhiều là chặt đầu, mổ bụng để tiết kiệm đạn. Chặt đầu mổ bụng Việt gian thường là những cuộc mít tinh dưới hình thức tòa án nhân dân để vừa tuyên truyền vừa hăm dọa, làm cho mọi người phải biết ép mình dưới uy quyền của Việt Minh lúc đó.

Giết Việt gian là một phong trào khủng bố có chánh sách, có chủ trương. Đối với dân chúng, đó là áp lực để mọi người phải tuân lịnh trung thành với Việt Minh. Đối với các lãnh tụ và cán bộ đối lập, đó là phương cách tiêu diệt trừ hậu hoạn.

Có thể nói chánh sách “Việt gian” tại miền Nam khởi đầu từ bản thông cáo của Trần Văn Giàu được đăng tải trên các báo sáng ngày 8-9-1945:

4- Đây Là Thông Cáo Chánh Phủ Lâm Thời
Sáng ngày 8-9-1945, các báo đều đăng thông cáo sau đây:
“Chánh phủ Lâm thời Nam bộ đang dự bị lập ủy ban điều tra mỗi tỉnh, mục đích là xem xét và tố cáo bọn phản quốc. Bọn này sẽ bị tòa án nhân dân trừng trị, và tài sản của họ bị tịch thu, ruộng đất của họ sẽ bị lấy lại mà cho dân nghèo.”

Một thông cáo chánh phủ như vậy làm sao không gây dư luận xôn xao giữa đồng bào Nam Bộ, khi mà mỗi người đều biết chánh quyền trong tay Cộng Sản, việc gì họ lại không dám làm? Vu khống là điều dĩ nhiên rồi.

Một phong trào bắt giết Việt gian nổi lên khắp nơi: những ai đối lập Cộng Sản là bị thủ tiêu. Một cơ hội để Cộng Sản trả thù.
Từ đó, Lâm ủy Hành chánh, nói cho đúng là Việt Minh, tha hồ bắt buộc các báo đăng thông cáo phao vu nhóm này, nhóm nọ. Uy thế của chánh phủ Cộng Sản tự nhiên lần lần mất.

Nhà cầm quyền Việt Minh đi sâu vào chánh sách bắt bớ “Việt gian phản quốc”. Những cuộc khủng bố tiếp diễn khắp nơi: sự tín nhiệm của quốc dân mỗi ngày một ly tán.

Sau thông cáo đó, phong trào bắt giết Việt gian được phát động khắp nơi, những ai đối lập với Cộng Sản là bị thủ tiêu. Trước hết là nhóm Đệ Tứ, rồi đến những ai biết bề trái của Trần Văn Giàu, sau mới đến những người đối lập bị khép tội Việt gian.

Trong tập hồi ký của ông Trần Văn Ân có một đoạn như sau về việc bắt giữ Việt gian:

“Chính Bảy Viễn trước kia chuyên rải truyền đơn chống Pháp, đánh đồn, phá khám, vượt ngục, năm 1945 có được lịnh của Trần Văn Giàu và Nguyễn Văn Trấn để hạ sát mấy trăm người trí thức ở Saigon, nhưng Bảy Viễn không giết. Thí dụ, khi kỹ sư Lê Văn Ngọ (nhạc phụ bác sĩ Trần Lữ Y) bị thanh niên tiền phong bắt trói dưới cột cờ, đợi giờ mổ bụng dồn trấu. Bảy Viễn đi qua hỏi: “Bắt thằng này trói dưới cờ để làm gì?” Trả lời: “Thưa đợi giờ mổ bụng dồn trấu” —’’Tại sao?’’— ‘’Thưa vì nó có vợ đầm (người Pháp)’’. Bảy Viễn ra lệnh: “Tha nó đi. Có vợ đầm kệ nó. Có vợ đầm chưa phải là Việt gian.” (Cũng vì chuyện cứu mạng này mà sau đó kỹ sư Lê Văn Ngọ trở thành người bạn trung thành, cộng tác với Bình Xuyên suốt đời) — Khi được Giàu, Trấn trao danh sách mấy trăm trí thức Việt gian phải giết, Bảy Viễn đã chửi thề rằng: “Đ.M. độc lập mà giết hết trí thức thì lấy ai làm việc?’’— Và ông đã không thi hành lịnh đó.”

Trong đợt tàn sát đầu tiên từ khi chiến sự bùng nổ ở miền Nam, những lãnh tụ tên tuổi sau đây đã bị giết: Dương Văn Giáo, Hồ Văn Ngà, Hồ Vĩnh Ký, Nguyễn Thị Sương, Bùi Quang Chiêu, Lê Kim Tÿ, Lâm Ngọc Đường, Trương Lập Tạo... và các lãnh tụ Đệ Tứ như đã nói ở trên. Ngoài ra cán bộ trung cấp của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất cũng bị hạ sát rất nhiều, con số 2.500 của ông Trịnh Hưng Ngẫu đưa ra không xa sự thật.

Trường hợp Hồ Văn Ngà xảy ra như sau:
Ông Hồ Văn Ngà là lãnh tụ cầm đầu đảng Việt Nam Quốc Gia Độc Lập đã nhiều lần tuyên dương ý chí: “sẵn sàng phục vụ bất cứ ai có tài cứu nước”, nhưng chính ông lại là nạn nhân của Việt Minh. Ông bị công an Việt Minh bắt trong lúc cùng với Kha Vạng Cân, Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn An thành lập ủy ban Phong tỏa Đô thành Saigon-Cholon. ủy ban này ra đời để ngăn chặn bước tiến của quân đội Pháp, trong khi các cán bộ Cộng Sản trong Lâm ủy Hành chánh Nam bộ đã bỏ chạy. ủy ban đặt văn phòng tại nhà ông Nguyễn Bá Tường, và thực hiện công tác phong tỏa đô thành khá hiệu lực. Nửa đêm khi ông Hồ Văn Ngà đang ngủ, công an Việt Minh tới bắt, không nêu lý do, tội phạm chi cả. Qua 1946, Hồ Văn Ngà bị đâm chết ở Kim Quy Đá Bạc (Rạch Giá), thi hài bị thả trôi dưới sông.

Hồ Văn Ngà bị giết vì một lòng tin tưởng rằng mình là bạn của Trần Văn Giàu, không bao giờ Giàu hại mình. Hồ Văn Ngà bị giam chung khám với Vũ Tam Anh, Trần Quang Vinh ở Cà Mau, hai ông Vinh, Anh vượt thoát nhờ kế hoạch phá khám của Nguyễn Thành Phương (Cao Đài).
Số người bị giết trong hai tôn giáo Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo năm 1945 lên đến trên mười ngàn, nhưng vì xảy ra tại các vùng nông thôn hẻo lánh, cho nên báo chí không đăng và dư luận trong nước ngoài nước không khám phá ra được.

Phía Phật Giáo Hòa Hảo đưa ra con số trên dưới 10.000 tín đồ và cán bộ bị hạ sát năm 1945, từ sau cuộc biểu tình tại Cần Thơ ngày 8-9-1945.

Cũng giống như chánh sách thi hành tại Saigon, Việt Minh ở miền Tây nhắm trước hết vào các cán bộ đầu não của Phật Giáo Hòa Hảo. Đoàn thể này đông quần chúng, nhưng ít trí thức, cho nên sau đợt tàn sát 1945, lực lượng trí thức Phật Giáo Hòa Hảo mất đi đến 70%, làm cho tổ chức này lâm vào tình trạng khủng hoảng lãnh đạo với các hậu quả lâu dài về sau.
5- Cuộc Biểu Tình Cần Thơ 8 – 9 – 1945 Để Làm Gì
Trong lịch sử tranh đấu của Phật Giáo Hòa Hảo, cũng như trong sanh hoạt cách mạng của miền Tây Nam Việt, cuộc biểu tình ngày 8-9-1945 của tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tại Cần Thơ, là một biến cố quan trọng.

Về mặt chính trị, cuộc biểu tình này là khởi điểm của tiến trình đối nghịch giữa hai khuynh hướng chính trị quốc gia và quốc tế tại miền Nam. Khảu hiệu “chống độc tài” xuất hiện lần đầu tiên từ cuộc biểu tình này, có nghĩa là chống chủ trương độc tài của Cộng Sản Đệ tam Quốc tế, chống âm mưu lấy đảng trị quốc và thao túng chánh quyền miền Nam của lãnh tụ Cộng Sản Trần Văn Giàu. Khảu hiệu “chống độc tài” đưa ra lúc đó, là một điều mới lạ đối với trình độ ấu trĩ chánh trị của quần chúng, bởi vì rất ít người có được ý niệm đúng về dân chủ, cho nên không thể có phản ứng “chống độc tài”. Lúc đó, khảu hiệu được phổ biến và quan trọng nhứt là “chống thực dân xâm lược Pháp.” Vì vậy khảu hiệu “chống độc tài” do Phật Giáo Hòa Hảo đưa ra, có thể xem như quá sớm, dù rằng rất đúng.

Không khí bắt đầu nặng nề, các giới tranh đấu bắt đầu thấy âm mưu Cộng Sản Đệ tam “dĩ đảng trị quốc” loại các chiến sĩ quốc gia ra khỏi hàng ngũ lãnh đạo cuộc đấu tranh.

Trong phiên họp đêm 7-9-1945, Trần Văn Giàu bị đả kích và phải nhường chức vụ Chủ tịch Lâm ủy Hành chánh cho ông Phạm Văn Bạch, Giàu xuống làm Phó Chủ tịch, vẫn kiêm quân ủy.

Hội nghị kéo dài trong bầu không khí nặng nề. Đến 9 giờ tối, Lý Huê Vinh, cánh tay mặt của Trần Văn Giàu, bước vào phòng họp trao cho Giàu một bức điện tín báo tin: “Hòa Hảo nổi dậy đảo chánh và chiếm cứ Cần Thơ”. Liền đó Trần Văn Giàu có phản ứng côn đồ, đập bàn chất vấn Huỳnh Giáo chủ: “Ông chưởng giáo nghĩ sao đây?”

Huỳnh Giáo Chủ trả lời rằng Phật Giáo Hòa Hảo không có chủ trương đảo chánh chiếm cứ Cần Thơ, đó là một cuộc biểu tình hợp pháp của tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo để biểu lộ quan điểm đấu tranh chống thực dân Pháp và chống độc tài. Giáo Chủ hứa chắc rằng sẽ không có bạo hành hay gây rối loạn từ phía Phật Giáo Hòa Hảo.

Đây là một cuộc biểu tình có khoảng hai chục ngàn tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tham dự, — có lẽ là cuộc biểu tình lớn lao và quan trọng nhứt ở Cần Thơ — với các khảu hiệu nêu lên các nguyện vọng:
§         Võ trang quần chúng chống thực dân Pháp.
§         Tảy uế các phần tử thúi nát trong ủy ban Hành chánh Nam bộ.

Trước đó không lâu, đã có ba cuộc biểu tình vĩ đại tại Saigon, ngày 21-8-1945 của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt, ngày 25-8-1945 của Lâm ủy hành chánh Nam Bộ, và ngày 2-9-1945 của Việt Minh. Các cuộc biểu tình trong bối cảnh đặc biệt lúc đó, đều có mục tiêu biểu lộ nguyện vọng độc lập, và biểu dương lực lượng dân tộc, để thế giới thấu hiểu, và để Pháp nhìn thấy sức mạnh quần chúng và ý chí tự do của dân tộc Việt Nam. Tất cả ba cuộc biểu tình này đều có hàng vạn quần chúng tham gia với nhiệt tình cao ngất.

Cuộc biểu tình Cần Thơ của tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo cũng có mục tiêu huy động quần chúng để biểu dương ý chí và lực lượng, như ba cuộc biểu tình trước, nhưng đặc biệt thêm khảu hiệu chống độc tài, tức nhằm mục đích đòi hỏi thanh lọc hàng ngũ lãnh đạo trong ủy ban Hành chánh Nam bộ. Xét theo các khảu hiệu đã nêu lên, thì cuộc biểu tình này không có mục đích “đả đảo Việt Minh”, mà ngược lại vẫn ủng hộ chánh quyền cách mạng, nhưng đòi hỏi phải cải tổ nhân sự mà thôi.
Chắc chắn đây cũng không phải cuộc biểu tình tự động của quần chúng. Dù không có tài liệu để chứng minh, cũng có thể giả thiết rằng trong đừơng lối ngăn chặn âm mưu độc tài đảng trị của phe Trần Văn Giàu, Huỳnh Giáo Chủ đã chỉ thị cho tín đồ tổ chức biểu tình để yểm trợ quan điểm của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt đang tranh đấu đòi cải tổ Lâm ủy Hành Chánh. Cũng còn có thêm mục tiêu chứng minh cho hai đại biểu tổng bộ Việt Minh vừa từ Hà Nội vàoNam, có dịp nhìn thấy thực lực và tinh thần, cũng như khuynh hướng của quần chúng trongNam.

Mục tiêu thực sự của cuộc biểu tình Cần Thơ là như thế, cho nên Ban tổ chức biểu tình có xin phép của ủy ban Hành chánh tỉnh Cần Thơ (lúc đó do giáo sư Trần Văn Khéo làm Chủ tịch) và đã được chấp thuận trước, như một cuộc biểu tình hợp pháp. Ngoài ra, còn có mặt những nhân vật tin cậy của Huỳnh Giáo Chủ trong ban tổ chức, đồng thời là nhân sự cao cấp trong hệ thống điều hành của Phật Giáo Hòa Hảo lúc đó. Điều này chứng tỏ rằng cuộc biểu tình không phải do quần chúng tự động làm càn, mà cuộc biểu tình có đường lối mục tiêu rõ rệt, yểm trợ yêu sách và lập trường của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt.

Phản ứng của Việt Minh trong Nam — lúc đó đã đưa các cán bộ Cộng Sản, phần nhiều từ Côn Đảo mới về, nắm các chức vụ then chốt trong guồng máy hành chánh, quân sự và công an —, là phải bẻ gẫy thanh thế các nhóm đấu tranh chống lại mình. Cá nhân Trần Văn Giàu còn có thêm lý do riêng để hành động như thế, đồng thời trả hận và củng cố uy quyền. Cho nên Trần Văn Giàu đã chỉ thị đàn áp cuộc biểu tình này, và gán cho mục đích quá khích là “đảo chánh, chiếm cứ Cần Thơ.”

Vấn đề đặt trên bình diện thuần túy lý luận, có thể được nhìn như sau:
§         Đảo chánh, có nghĩa là chiếm lấy chánh quyền. Vậy Phật Giáo Hòa Hảo đảo chánh tại một tỉnh Cần Thơ, thì chiếm được quyền hành gì? Chánh quyền một tỉnh không thể giúp họ chủ động tình thế, mà phải là chánh quyền tại Saigon mới có uy lực trên toàn miền Nam, và uy lực đối ngoại (tức đối với Đồng Minh và Pháp lúc đó).
§         Chiếm cứ Cần Thơ, có nghĩa là chiếm lấy quyền cai trị tỉnh Cần Thơ. Nếu thế thì đám quần chúng biểu tình phải có võ trang tới một mức độ nào đó, mới có thể dùng võ lực để dẹp được những đội võ trang quân sự và Quốc gia Tự vệ Cuộc của chánh quyền đương thời tại Cần Thơ, để mà chiếm lấy các cơ quan đầu não, thiết lập bộ máy cai trị mới tại đây.

Hai điểm trên đây, dù quần chúng không đủ trình độ để hiểu biết như thế, nhưng chắc chắn các giới lãnh đạo Phật Giáo Hòa Hảo phải hiểu. Họ phải hiểu, và không thể làm một việc điên rồ, là đem tay không đi làm đảo chánh, rủ quần chúng không võ trang để chiếm cứ một tỉnh lÿ, mà không có một chuản bị nào cho giai đoạn trước và sau khi thành công.

Luận điệu “đảo chánh, chiếm Cần Thơ” do phía Trần Văn Giàu đưa ra, thực sự là để có cớ đàn áp, có “bằng cớ biện minh cho hành động đàn áp”, và có luận lý để lôi kéo quần chúng theo mình trong hành động đàn áp đó.

Sau cuộc biểu tình 8-9, phía Phật Giáo Hòa Hảo bị bắt bớ, đàn áp rất khủng khiếp, nhưng lại không có phương tiện tuyên truyền để đối phó với chiến dịch tuyên truyền của Việt Minh, cho nên dân chúng và công luận chỉ được nghe một tiếng chuông do Việt Minh, với vị thế chính quyền, có đủ phương tiện quảng bá trên toàn quốc.

Theo lời thuật lại của một số người đã sống tại Cần Thơ thời kỳ đó, cũng như một số tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đã tham gia cuộc biểu tình, thì sự việc diễn tiến đại cương như sau:

Từ chiều ngày hôm trước (7-9-1945), các đoàn tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo từ các ngả đường thủy và bộ, kéo về hướng tỉnh lÿ Cần Thơ. Họ là tín đồ và bảo an, được lịnh tổ chức thành đội ngũ để đi “kéo biểu tình đòi độc lập” tại Cần Thơ. Các trục lộ từ Cái Răng ra, từ Bình Thủy xuống, từ Vĩnh Long sang, đều đặc nghẹt những tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, phần nhiều mặc quần áo đen của nông thôn. Trên các thủy lộ, sông Bassac, rạch Cái Răng, rạch Cái Khế, từ phía Cái Côn ngược lên, hay từ khu Tân Lược Ô Môn xuôi xuống, ghe lớn ghe nhỏ được huy động từng đoàn chuyên chở các tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đi biểu tình.

Họ nhận được khảu lệnh của ban tổ chức là dừng chân phía ngoài châu thành Cần Thơ, đợi chỉ thị. Họ không mang theo võ khí, chỉ có thực phảm và nước uống. Một số người mang các biểu ngữ viết sẵn, các khảu hiệu của cuộc biểu tình. Số quần chúng này không khích động quá độ như quần chúng trong cuộc biểu tình 2-9-1945 tại Saigon. Họ bình tĩnh, và không ai nghĩ rằng chỉ mấy giờ đồng hồ sau đó, họ sẽ phải đón nhận những trận mưa đạn. Họ chỉ biết theo lịnh của Đức Thầy, nên họ đi kéo biểu tình đòi độc lập. Và họ rất hân hoan được làm công việc này.

Trong châu thành Cần Thơ, một thị trấn khoảng hai mươi ngàn dân trên hữu ngạn sông Bassac, mệnh danh thủ đô miền Tây, dân chúng có vẻ lo ngại trước một tình trạng rõ ràng là bất thường và nghiêm trọng: bên ngoài thành phố là hàng chục ngàn tín đồ Hòa Hảo, bên trong thành phố là các đội thanh niên tiền phong được huy động. Và công an, cảnh sát, quốc-gia-tự-vệ-cuộc, quân đội chuản bị như sắp ra mặt trận. Quân đội và công an cảnh sát có súng đạn, Thanh Niên Tiền Phong chỉ có gậy tầm vông. Lệnh thiết quân luật được ủy ban Hành chánh tỉnh Cần Thơ ban hành, dân chúng ở trong nhà không được ra ngoài đường. Và tin tức được loan ra: “Hòa Hảo biểu tình chiếm Cần Thơ”, hay “Hòa Hảo làm loạn.” Không khí nghẹt thở.

Ủy ban Hành chánh họp tại dinh Chủ tịch cũ trên bờ sông Bassac, do Chủ tịch Trần Văn Khéo chủ tọa. Đại diện Phật Giáo Hòa Hảo được mời tới để thảo luận. ủy ban Hành chánh yêu cầu các đại diện này (Nguyễn Xuân Thiếp, Trần Văn Hoành, Huỳnh Thạnh Mậu) ra lệnh cho các đoàn biểu tình rút lui, nhưng gặp phải thái độ cương quyết không chấp nhận. Phía Phật Giáo Hòa Hảo viện dẫn lý do là cuộc biểu tình hợp pháp đã có sự thông báo trước và sự đồng ý của ủy ban Hành chánh, lại là cuộc biểu tình ủng hộ chánh quyền cách mạng, đòi độc lập, thì không có lý do gì phải giải tán. Hai bên chỉ còn cách hỏi lại chỉ thị của Saigon.

Sáng ngày 8-9-1945, trời chưa sáng hẳn, dân chúng Cần Thơ nghe có tiếng súng nổ ở các phía cầu Bắc Cần Thơ và đường đi Cái Răng. Sau đó, có tiếng loa loan báo cho công chúng biết: “Hòa Hảo dùng ghe vượt sông Cần Thơ đổ bộ lên Châu Thành”. Và các toán thanh niên tiền phong được điều động đến phục kích trên mé sông phía Nam để chặn Hòa Hảo đổ bộ. Nhưng không thấy cuộc đổ bộ nào xảy ra, và sau nhiều loạt súng nổ, tình hình bỗng trở lại lắng dịu. Tới chiều, dân chúng Cần Thơ được biết “Hòa Hảo đã bị đảy lui rồi.”

Sự thật, súng của Việt Minh bắn xả vào đoàn biểu tình Phật Giáo Hòa Hảo làm cho nhiều người chết và bị thương. Phía Phật Giáo Hòa Hảo không bắn lại vì không có súng. Đoàn biểu tình rút lui trong hỗn loạn, mà không kháng cự. Nhờ vậy, chỉ trong mấy giờ sau khi súng nổ, tình hình trở lại yên tĩnh.

Hôm sau tại Cần Thơ, ủy ban Hành chánh tỉnh họp mít tinh dân chúng trong khuôn viên dinh Chủ tịch, để nghe Chủ tịch tuyên bố về “thắng lợi đảy lui cuộc tấn công của Phật Giáo Hòa Hảo” và gắt gao lên án Phật Giáo Hòa Hảo “âm mưu cướp chánh quyền và chiếm cứ tỉnh Cần Thơ”. Tiếp theo, là chiến dịch bắt bớ các cán bộ Phật Giáo Hòa Hảo. Khám đường Cần Thơ không đủ chỗ để giam hết các cán bộ Phật Giáo Hòa Hảo, vì số lượng bị bắt rất nhiều. Đây là đợt khủng bố rất dữ dội, có chủ đích tiêu diệt bộ máy cán bộ và lãnh đạo của Phật Giáo Hòa Hảo. Các cán bộ cao cấp, chỉ huy cuộc biểu tình là Huỳnh Thạnh Mậu, bào đệ Huỳnh Giáo chủ, Trần Văn Hoành, trưởng nam ông Trần Văn Soái, Nguyễn Xuân Thiếp, đại diện được phái ra Hà Nội tiếp xúc Tổng bộ Việt Minh, đều bị bắt giam tại khám đường Cần Thơ. Khoảng một tháng sau, họ bị đưa ra xử tử tại vận động trường Cần Thơ, ngày 7-10-1945.

Cuộc nội chiến đẫm máu bắt đầu từ đó. Nhiều cán bộ cao cấp Phật Giáo Hòa Hảo khắp các tỉnh khác, đều bị bắt, và bị giết. Riêng tại Trà Vinh, các ông Chung Bá Khanh, Đỗ Hữu Thiều, Võ Văn Thời, Lâm Thành Nguyên.. bị neo dưới sông cho chết ngộp. Nhờ may mắn đặc biệt hay tại chưa tới số chết, ông Lâm Thành Nguyên giẫy thoát khỏi dây trói lội vào bờ, trốn đi được.

Cộng Sản khủng bố ác liệt nhứt tại các tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc là hai tỉnh rất đông tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo. Sự phản ứng tự vệ của tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo cũng rất mãnh liệt, số người bị giết cả hai bên lên đến hàng chục ngàn người, tạo một tình huống nội chiến giữa chính quyền Việt Minh và tôn giáo Phật Giáo Hòa Hảo. Nhưng thực chất, đây là một cuộc đối nghịch của hai khuynh hướng quốc gia và quốc tế.

Tại Saigon đêm 9-9-1945, Trần Văn Giàu ra lịnh cho Quốc- gia-tự-vệ cuộc tức công an võ trang, đến bao vây trụ sở Phật Giáo Hòa Hảo ở số 8 đường Sohier, góc đường Miche để lùng bắt Huỳnh Giáo Chủ. Nhưng họ chỉ bắt được các tín đồ và chức sắc, còn vị Giáo Chủ thì họ không tìm thấy. Theo tin tức cung cấp bởi chính những người đã đưa Huỳnh Giáo Chủ đi thoát, thì trong lúc bộ đội và công an lục soát văn phòng Phật Giáo Hòa Hảo, Huỳnh Giáo Chủ vẫn có mặt tại đó, nhưng không hiểu vì lý do nào mà họ không tìm ra được.

Sau cuộc biểu tình 8-9 ở Cần Thơ mà Hòa Hảo biểu dương lực lượng để ủng hộ chánh phủ, thì lại bị Việt Minh phao vu là “toan cướp chính quyền”, nên thẳng tay đàn áp, gây ra cuộc đổ máu cốt nhục tương tàn. Cuộc vây bắt ông Huỳnh Phú Sổ ngày 9-9 tại Saigon, ông này thoát khỏi, nhưng Lương Trọng Tường bị bắt. Mà Lương Trọng Tường là chỉ huy trưởng Đệ tứ Sư đoàn Dân quân. Trần Văn Giàu hạ lịnh giải tán Phật Giáo Hòa Hảo và tịch thâu khí giới. 

6- Cuộc Vượt Thoát Vòng Vây Đường Michen
Sau đây là phần tường thuật về trường hợp Huỳnh Giáo Chủ từ trụ sở Phật Giáo Hòa Hảo đường Miche di chuyển về chiến khu miền Đông sau cuộc vây bắt hụt của công an Quốc gia Tự vệ cuộc ngày 9-9-1945.

Người tường thuật công tác vượt thoát của Huỳnh Giáo Chủ là ông Lâm Ngọc Thạch. Ông là một trong những tín đồ được phục vụ bên cạnh Giáo Chủ, và đã được Giáo Chủ gởi đi học Nhựt ngữ. Lúc đó, ông đảm trách công tác phối hợp với bộ phận chuản bị thành lập Đệ tứ Sư đoàn dân quân, bằng cách tuyển lựa các đội viên Bảo An đưa lên Saigonthụ huấn quân sự.
Sau đây là lời tường thuật của ông Lâm Ngọc Thạch:

‘’... Sau khi được tin Trần Văn Giàu bao vây trụ sở đường Sohier đêm 9-9-1945, tôi lập tức từ trường Mỹ nghệ Gia Định xuống Saigon quan sát tình hình vào sáng ngày 10-9. Rất đông thanh niên tiền phong và công an, quốc gia tự vệ cuộc của Lý Huê Vinh canh gác nghiêm mật quanh trụ sở. Tôi thấy thế nguy không thể vào trụ sở được bèn đi về văn phòng đường Lefèbvre (sau là Nguyễn Công Trứ). Vì nơi đây còn trong khu vực của Kempetai Nhựt, Việt Minh không tới, nên còn bình yên. Tôi gặp một đồng đạo là Hai Cống từ dưới chợ Cầu Ông Lãnh vừa đạp xe máy lên tới nơi. Tôi liền yêu cầu đồng đạo Hai Cống chờ tôi và sẵn sàng để lên Biên Hòa báo tin cho ông Hội trưởng Phật Giáo Hòa Hảo tỉnh Gia Định là Ngô Văn Ký tức ông Phán Ký hay biến cố vừa xảy ra, yêu cầu ông Ký chuản bị nơi nào kín đáo để tôi tìm cách đưa Huỳnh Giáo Chủ lên ản náu. Vì lúc đó trong trí tôi đang thiết lập một kế hoạch đưa Giáo Chủ ra khỏi vòng vây của Lý Huê Vinh tại trụ sở Sohier.

Sau đó tôi về đường Farinolles là nhà của một nữ đồng đạo tên là bà Năm Cò. May thay, tại đây tôi gặp được cô Năm Tournier là một nữ đồng đạo chủ nhân căn nhà 38 đường Miche, giáp với phía sau căn nhà số 8 đường Sohier. Cô Năm Tournier báo tin mật: Đức Thầy hiện còn tại nhà của cô, và cô ra đây để báo tin cho anh em tìm cách đưa Đức Thầy ra khỏi vòng vây.

Kế hoạch của tôi lúc đó là hóa trang làm một sĩ quan quân đội Thiên Hoàng, lái xe có cắm cờ quân đội Nhựt, chạy vào căn nhà bên hông trụ sở đường Miche, lúc đó đang là văn phòng của hải quân Nhựt, rồi tại đó cấp tốc báo tin cho Đức Thầy chuyển sang, và lên xe chạy đi.
Tôi trở về đường Lefèbvre, sắp đặt cho đồng đạo Hai Cống đi Biên Hòa, nói rõ điểm hẹn để ông Phán Ký chờ đợi tại đó. Rồi tôi đến trụ sở hiến binh Nhựt yêu cầu họ cho mượn một chiếc xe hơi của Kempetai. Trung sĩ Yori đồng ý vì có quen biết trước, nhưng khi trình lên thiếu tá Hara thì ông này không chấp thuận cho lấy xe Kempetai, mà giao cho tôi một chiếc xe của hãng Mitsubitsi, có cắm cây cờ mặt trời của Nhựt trên đầu xe. Tôi cần có một người tài xế để dễ bề đối phó khi bị chặn đường, và bà Năm Cò đã sốt sắng giao đứa con trai duy nhất mà bà rất cưng (tạm gọi là anh Hai) đi làm nhiệm vụ nguy hiểm đó. Tôi nhận thấy đây là một cử chỉ hy sinh đáng kể của bà, vì bà chỉ có một đứa con mà thôi, mạo hiểm đi làm công tác này thiệt là nguy hiểm, vì xông vào vòng vây địch, có thể bị bắt, hay bị xả súng bắn chết như không.

Tôi thay quần áo, mặc bộ sắc phục sĩ quan Nhựt, đeo gươm dài, đội mũ lưỡi trai cản thận. Bộ quần áo này do ông Trần Văn Soái may tặng cho tôi từ lâu, tôi chưa hề mặc, đây là lần đầu tiên đem ra sử dụng trong một công tác đặc biệt, để hóa trang làm sĩ quan quân đội Thiên Hoàng.

Anh bạn tài xế lúc đó cũng còn trẻ, khoảng 25 tuổi, công tử con nhà có tiền, mặt mũi thiệt dễ thương hiền lành, nghe lời mẹ dạy, mà lãnh nhiệm vụ lái xe cho tôi. Anh cầm tay bánh, tôi ngồi bên cạnh phía mặt, băng sau là hai thiếu nữ có mang theo một bộ quần áo đàn bà Việt Nam, để sẽ trao cho Đức Thầy mặc vào, hóa trang thành phụ nữ để dễ qua mặt công an Việt Minh.

Tôi dặn anh tài xế là cứ lái như thường, nhưng nếu bị công an chặn lại, thì đừng có ngừng, mà phải nhấn ga phóng xe mau vào căn nhà hải quân. Vào đó rồi, bọn công an sẽ không có cơ hội xét hỏi nữa. Quả vậy, trên đường Miche, ngay góc Sohier, mấy chục nhân viên Quốc gia Tự vệ cuộc và Thanh Niên Tiền Phong còn canh gác bao vây. Khi xe chúng tôi tới nơi, tài xế bóp kèn, vọt ga, đám người đó phải vẹt ra một bên nhường đường, vì sợ bị xe cán. Và tài xế quẹo thật mau vào căn nhà hải quân cạnh căn nhà số 38 đường Miche của cô Năm Tournier.
Xe vừa ngừng, tôi bước xuống lên tiếng kêu “Đức Thầy”, để ngài nhận ra tôi. Chỉ một phút sau, ngài vượt qua bức tường thấp giữa hai căn nhà, nhảy xuống phía bên nhà hải quân, ngay chỗ xe tôi đậu sẵn. Ngài lên xe, ngồi băng sau, và chiếc xe lập tức rời căn nhà đó, phóng ra ngoài đường. Bọn công an chặn lại, nhưng chiếc xe vọt mạnh, họ không bám được, và để cho xe chạy luôn. Chúng tôi chạy thẳng đến chỗ hẹn với ông Phán Ký. Đức Thầy cũng không thay y phục phụ nữ, mà vẫn mặc nguyên quần áo của ngài.
Tới điểm hẹn, ông Phán Ký đã chờ sẵn, đón Đức Thầy đi xe ngựa tới một địa điểm kín đáo tại vùng Long Thành. Tôi và anh bạn tài xế lái xe trở về Saigon, trao trả cho hiến binh chiếc xe hơi, với lời cảm ơn. Công tác táo bạo này đã hoàn tất thật mau lẹ. Tôi không nghĩ rằng tôi có thể tự có sáng kiến và kế hoạch toàn vẹn như vậy. Tôi cũng không ngờ rằng kế hoạch đã được thực hiện xuôi lọt như thế. Tôi nghĩ rằng hẳn phải có Ơn Trên hộ độ.’’
(Thuật lại theo lời ông Lâm ngọc Thạch)

Sau khi đã hoàn tất kế hoạch đưa Huỳnh Giáo Chủ khỏi vòng vây công an, ông Lâm Ngọc Thạch lại sa vào lưới của công an. Đây cũng là một sự việc chứng minh tấm lòng tha thiết đoàn kết chống Pháp của Huỳnh Giáo Chủ. Vừa mới thoát khỏi âm mưu hãm hại của Trần Văn Giàu, Huỳnh Giáo Chủ đã không hề nuôi hận thù, mà đã hành động đúng với tâm thức một người yêu nước và một vị Giáo Chủ. Ngài viết một bức thơ, giao cho ông Lâm Ngọc Thạch trở về Saigon, tìm gặp Ung Văn Khiêm mà trao tận tay. Mục đích là để nói rõ cho Ung Văn Khiêm biết mọi sự thật, để tìm biện pháp gỡ rối cho một tình thế nguy hiểm: tiềm lực dân tộc tan vỡ trong khi quân Pháp sắp đến tái chiếm.

Nhưng Cộng Sản không nghĩ như Ngài, không đặt quyền lợi đất nước lên trên hết như vị Giáo Chủ, mà họ chỉ nghĩ đến quyền lợi đảng Cộng Sản, cho nên thay vì nhận tiếp sứ giả của Huỳnh Giáo Chủ, Ung Văn Khiêm lại để cho công an đến bắt ông Lâm Ngọc Thạch, giam vào hầm tối tại khám lớn Saigon. Tuy là một sự việc nhỏ, cũng đủ để chứng minh rằng Cộng Sản không biết đến dân tộc, cũng không biết đến nhân đạo, có cơ hội là giở ngón độc tài và đàn áp đối lập.

7- Nam Kỳ Quốc
Chánh sách chia để trị của Pháp, sau khi cuộc Cách mạng tháng 8-1945 bùng nổ tại Nam Việt, đưa đến việc thành lập chánh phủ Nam Kỳ tự trị, cũng được gọi một cách chế diễu là “Nam Kỳ Quốc”. Đây là sáng kiến của những tên thực dân ngoan cố như Béziat, Bazé, De La Chevrotière, được bảo trợ bởi viên Đại tá Cedille và hợp thức hóa bởi ông thầy tu thiển cận là đô đốc D’Argenlieu do tướng De Gaulle gởi sang Việt Nam tái lập bộ máy cai trị thuộc địa cùng với đạo quân viễn chinh Leclerc năm 1945.

Một diễn tiến quan trọng cần được ghi lại trong lịch sử tranh đấu tại miền Nam Việt Nam là chế độ Nam Kỳ Quốc, mà nhiều giới đã gọi là một “quái thai lịch sử”. Đó là một âm mưu của thực dân Pháp mà một số người Việt Nam đã mắc vào, hoặc vì động cơ danh lợi cá nhân, hoặc vì thiện chí muốn làm điều tốt trong hoàn cảnh khó khăn nhưng bị thực dân Pháp lừa gạt.

Ngày 4-2-1946, đô đốc D’Argenlieu nhân danh Cao ủy Pháp tại Đông Dương ký sắc lịnh thành lập một Hội Đồng Nam Kỳ gồm bốn thân hào Pháp, tám thân hào Việt Nam, trong đó có bác sĩ Nguyễn Văn Thinh sau trở thành Thủ tướng Chánh phủ Nam Kỳ tự trị.
Trong giới người Pháp có ba khuynh hướng:
1.    Tái lập chế độ thuộc địa như trước 1945.
2.    Biến Nam phần thành một tỉnh hạt (département) Pháp, nghĩa là sáp nhập lãnh thổ Nam phần vào nước Pháp;
3.    Thành lập một Chánh phủ “Nam Kỳ Tự Trị.”

Phần đông người “Pháp cũ” muốn áp dụng một trong hai giải pháp nhứt nhì nói trên. Nhưng, các viên chức mới qua nắm bộ máy công quyền Pháp lo ngại người Việt sẽ chống đối và các chính khách bổn xứ sẽ từ chối hợp tác. Họ nhận định nên thực hiện giải pháp “Nam Kỳ Tự Trị”, ít nhứt trong giai đoạn giao thời để chờ tình hình Đông Dương nói chung được ổn định. Giới người “Pháp mới” cho rằng giải pháp này phù hợp với Tuyên ngôn Brazaville ngày 24-3-1945 của tướng De Gaulle.

>Từ khuynh hướng này, Hội Đồng Nam Kỳ đề cử bác sĩ Nguyễn Văn Thinh thành lập nội các Nam Kỳ Quốc, ra mắt ngày 1-6-1946 trước nhà thờ Đức Bà Saigon, với bài quốc thiều lấy tám câu thơ đầu trong “Chinh Phụ Ngâm":

“Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên...”<

Thực dân Pháp đối xử tàn tệ với Chánh phủ Nam Kỳ Tự Trị, chỉ cấp cho một chiếc xe hơi mang số C.Z.00, tức là hai con số không. Bài quốc thiều đã là một chuyện khôi hài, chiếc xe hơi lại thêm một đầu đề châm biếm “zéro cộng với zéro thành cái gì?”, cho nên có người đã cho rằng chính vì sự xui xẻo đó mà chỉ mấy tháng sau chiếc xe bị phục kích gần Trung Lương, hai vị Tổng trưởng Nam Kỳ Quốc tử nạn, chiếc xe cháy tiêu.

Thủ tướng Nguyễn Văn Thinh không được cấp công thự làm văn phòng, phải làm việc ngay tại nhà riêng ở góc đường Verdun-Duranton. Cũng chính tại ngôi nhà này bác sĩ Thinh treo cổ tự vẫn vào đêm 10 rạng ngày 11-11-1946, sau trên năm tháng làm thủ tướng bù nhìn. Pháp giấu biệt bản chúc thư của Thủ tướng Thinh, nên không ai biết ông đã thố lộ những điều tâm sự u uản bi đát thế nào để đi đến quyết định đau thương tự sát đó. Biết đâu bản chúc thư tuyệt mệnh ấy lại chẳng là một bản án nói về dã tâm của thực dân Pháp, cho nên Pháp phải giấu luôn.
Nhận xét về con người và cái chết của bác sĩ Thinh, cụ Trần Văn Ân viết như sau:

Tôi có quen biết với bác sĩ Thinh từ năm 1929, vì Thinh là bạn Dương Văn Giáo, Luật sư. Mà tôi là người bạn nhỏ tuổi của ông Dương Văn Giáo. Tôi cho lời ông Lang là đúng sự thật, quả tình ông Thinh là người ngay thật, chánh trực và hảo tâm.
Chúng tôi chống chính sách phân ly, không tiếp xúc với bác sĩ Thinh khi ông lập Chánh phủ Nam Kỳ tự trị. Nhưng ông Thinh vốn có đức độ khiêm tốn. Ông khác lập trường với chúng tôi nhưng vẫn là người ái quốc. Ông tự tử khi nhận ra mình bị gạt, khi thấy Pháp chỉ có dã tâm...

Hôm nay ngồi viết về cái chết của Bác sĩ Thinh, lúc người tôi đã 84 tuổi Việt, đã hành thiền trên 20 năm qua, tôi thấy phải lấy công tâm mà xét về cử chỉ của Bác sĩ Thinh. Năm 1946 tôi coi thường và cho rằng ông chết là phải, bởi đi ngược nguyện vọng nhân dân. Nay xét lại thấy Bác sĩ Thinh cũng như Nguyễn Văn Sâm, như các bạn Thâu, Thạch, Hùm, Chánh, Phương, Đường (Lâm Ngọc) kẻ trước người sau đều là nạn nhân của đế quốc, đế quốc trắng và đế quốc đỏ... (*)

8- Việt Nam Dân Chủ Xả Hội Đảng Đóng Góp Vào Việc Phà Vở Nam Kỳ Quồc
Sau khi Bác sĩ Thinh tự tử, Bác sĩ Lê Văn Hoạch được đề cử làm Thủ tướng Nam Kỳ Quốc. Nhưng vì chủ trương phân ly đi ngược lại nguyện vọng quần chúng, cho nên chánh phủ Hoạch cũng không làm được nên chuyện đáng kể. Tại bưng biền, phong trào kháng chiến phát triển, chánh phủ Nam Kỳ Quốc càng bị cô lập, bất lực, đến năm 1947, thủ tướng Lê Văn Hoạch phải rút lui.

Pháp mời thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân, một sĩ quan trong quân đội Pháp có quốc tịch Pháp, ra lập nội các mới. Báo chí Saigon lúc đó phần đông chống lại chủ trương phân ly, ngoại trừ tờ Phục Hưng của ký giả Hiền Sĩ. Đả kích hăng say và sâu sắc nhứt là tờ báo Quần Chúng của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng với những cây bút cừ khôi như Trần Văn Ân, Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Bảo Toàn.

Vì vậy mà trước khi thành lập nội các, Thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân nhận lời đến thảo luận với nhóm chủ biên báo Quần Chúng, có Trung úy Trần Văn Đôn tùy tùng. Khi nhận lời lập Nội các, tướng Xuân chính thức mời ông Trần Văn Ân tham gia nội các với chức vụ Tổng trưởng Thông tin. Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng họp nội bộ và đưa ra điều kiện là phải phá bỏ danh xưng Nam Kỳ Cộng Hòa, đổi ra là Chánh Phủ Lâm Thời Nam Phần Việt Nam. Như thế, là đặt nguyên tắc thống nhứt từ lúc đó.

Ngày 8-10-1947 Chánh Phủ Lâm Thời Nam Phần Việt Nam ra mắt, với bài diễn văn nảy lửa do hai ông Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân hội ý viết ra, tuyên dương ý chí và chủ trương thống nhứt, chấm dứt thời kỳ phân ly Nam Kỳ Quốc. Bài diễn văn gây chấn động chánh giới Pháp Việt.
Pháp rất bất bình, nhưng đứng trước sự việc đã rồi, họ không thể cách chức ngay Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân, họ lại nghĩ rằng đằng sau âm mưu thống nhứt này là hai nhân vật Nguyễn Văn Sâm và Trần Văn Ân. Hậu quả đến rất mau chóng: ngày 10-10-1947 tức chỉ hai ngày sau, ông Nguyễn Văn Sâm bị ám sát chết trên đường Cây Mai gần đường Tổng Đốc Phương Chợ Lớn, khi đi dự lễ Quốc Khánh Song Thập của Trung Hoa.

Phần ông Trần Văn Ân, mấy tháng sau bị tướng Boyer de la Tour, ủy viên Cộng hòa Pháp tại Nam Kỳ, làm áp lực với tướng Xuân buộc phải đưa ra khỏi nội các. Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân vốn là người có tâm hồn Việt Nam, tuy mang quốc tịch Pháp, nhưng rất yêu nước Việt Nam, lại là người có tâm hồn cao thượng, cho nên không chịu làm theo chỉ thị của tướng De la Tour. Sau hết, tướng De la Tour viết thơ hăm dọa rằng nếu sau 24 giờ mà ông Trần Văn Ân còn có mặt trong Nội các, thì an ninh cá nhân không được bảo đảm. Trước áp lực khủng bố dọa nạt đó, ông Ân từ chức...

Tuy nhiên, kể từ chánh phủ Nguyễn Văn Xuân, thời kỳ phân ly Nam Kỳ Quốc cáo chung, mở đầu thời kỳ thống nhứt lãnh thổ. Lá cờ vàng ba sọc đỏ cũng ra đời vào lúc này, cùng với quốc ca “Thanh Niên Hành Khúc”.

Đến 21-5-1948, Chánh Phủ Lâm Thời Nam Phần của thủ tướng Nguyễn Văn Xuân trở thành Chánh phủ Trung ương của Quốc Gia Việt Nam thống nhứt, và Thủ tướng Xuân ký kết thỏa ước với Cao ủy Bollaert trên chiến hạm Duguay-Trouin tại Vịnh Hạ Long. Theo thỏa ước này Pháp công khai nhìn nhận Việt Nam là quốc gia độc lập và thống nhứt. Cựu hoàng Bảo Đại nhơn danh Quốc trưởng Việt Nam chuản ký bản thỏa ước. Giải pháp quốc gia được khởi đầu từ đó.

Đoạn trên đây ghi lại các diễn biến từ lúc khai sanh “Nam Kỳ Quốc” đến khi nó cáo chung, mà Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng đã thực sự đóng một vai trò quan trọng trong việc chuyển từ tình trạng phân ly sang thống nhứt lãnh thổ và chánh quyền Việt Nam.

9- Cộng Sản Kháng Chiến, Chỉ Giành Quyền
Mặc dầu Trần Văn Giàu nhiều lần phóng ra luận điệu rằng Việt Minh là bạn của Đồng Minh “đối với Nga là bạn, đối với Tàu như răng với môi, đối với Mỹ đã từng sát cánh chống phát xít Nhựt, đối với nội các lao động Atlee của Anh cùng khuynh hướng”, nhưng sự việc xảy ra hoàn toàn trái ngược.

Phái đoàn Đồng Minh, tức phái bộ Anh quốc thay mặt Đồng Minh đến Saigon giải giới quân đội Nhựt, đã không nể nang Lâm ủy Hành chánh chút nào, cho nên tướng Gracey đã ra lịnh cấm mang võ khí, đóng cửa báo Việt ngữ, thiết quân luật, đuổi Lâm ủy Hành chánh ra khỏi dinh Gia Long... Chiến tranh bắt đầu theo lịnh “tiêu thổ kháng chiến”,Saigon chìm ngập trong cảnh không đèn, không nước, dân quân cách mạng và thanh niên tiền phong tự lực chiến đấu chống Pháp và quân chà chóp của Anh. Dân chúng lũ lượt tản cư khỏi thủ đô.

Lâm ủy Hành chánh đã cải tổ thành ủy ban Nhân dân Nam bộ do Phạm Văn Bạch làm Chủ tịch, cũng tản cư về Chợ Đệm, không phải để chiến đấu mà thực ra để thương thuyết với Pháp. Cuộc thương thuyết kéo dài chừng 10 ngày là chấm dứt, chiến sự tái phát dữ dội.

Những thành phần thực sự chiến đấu trực diện quân Pháp chung quanh Saigon-Chợ Lớn lúc đó không phải là Cộng Sản đệ tam, mà chính là các đơn vị võ trang của Bình Xuyên, cựu quân nhân, trong Đệ nhất Sư đoàn dân quân cách mạng, đây là hai thành phần đã quen sử dụng súng, và từng có kinh nghiệm chiến trận. Ngoài ra còn có ủy ban Phong Tỏa Đô Thành Saigon Chợ Lớn, và một số Thanh Niên Tiền Phong làm công tác tình báo, liên lạc, phá hoại...

Những lãnh tụ Cộng Sản và ủy viên trong ủy ban Nhân dân Nam bộ lo bảo vệ mạng sống trước đã, nên tìm cách dời về Hậu Giang, và sau đó kẻ sang Thái Lan, người ra Bắc Việt. Họ không đóng góp xương máu vào cuộc kháng chiến Nam Bộ, nhưng lúc nào cũng biểu dương uy thế lãnh đạo.

Tướng Leclerc của Pháp đến Saigon ngày 4-10-1945 tuyên bố sẽ lập lại trật tự toàn cõi Nam Kỳ trong vòng ba tháng. Với một quân lực khá đông và võ khí tân tiến, tướng Leclerc dần dần phá vỡ vòng vây phong tỏa đô thành.

Ngày 25-10, quân Pháp cùng quân Anh Ấn tiến chiếm Thủ Dầu Một, Biên Hòa ở phía bắc và Mỹ Tho ở phía nam. Ngày 29-10, tiến chiếm Vĩnh Long, 30-10 chiếm Cần Thơ. Cho tới ngày 4-2-1946, quân Pháp chiếm tỉnh lÿ Cà Mau, và xem như đã có mặt trên hầu hết các tỉnh miền Nam.
Trước sức tấn công của quân Pháp, các tổ chức nhân dân kháng Pháp lui vào hậu phương để rồi một số bỏ bưng biền trở về thành phố, một số kiên cường hơn rút sâu vào các chiến khu địa thế hiểm trở như U Minh, Đồng Tháp, Rừng Sát...Trong khi đó thì các lãnh tụ Việt Minh chạy tứ tán. Trần Văn Giàu chạy tuốt sang Bangkok, Dương Bạch Mai, Huỳnh Thiện Nghệ, Kiều Đắc Thắng bỏ Nam bộ chạy về Bắc Việt, Lê Duản chỉ còn một chiếc quần xà lỏn và hai cận vệ sống vất vưởng tại khu rừng miền Đông...

Thật ra cuộc kháng chiến Nam Bộ đã có thể mạnh mẽ hơn nếu Cộng sản đã không trổ ngón độc tài khủng bố làm cho lòng dân ly tán mất niềm tin, làm cho quần chúng hạ tầng hoang mang, hai tôn giáo Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo bất hợp tác và chống đối, làm cho các lãnh tụ cách mạng của miền Nam không thể đóng góp tài sức vì kẻ bị sát hại người bị giam cầm, người phải trốn tránh...

Những diễn tiến ghi lại trên đây cho thấy rằng vì tham vọng đảng trị mà đảng Cộng Sản đệ tam đã làm cho hàng ngũ và tiềm lực kháng chiến suy yếu trầm trọng. Ngay buổi đầu của cách mạng tháng Tám, khí thế quần chúng và các tổ chức đấu tranh vô cùng hăng say, mọi người đều sẵn sàng hy sinh hiến thân vì tổ quốc, để đòi lại độc lập tự do. Tất cả những lãnh tụ đấu tranh ở miền Nam đều không hề chủ trương cướp đoạt quyền lãnh đạo, mà chỉ mong tất cả các giới, các khuynh hướng cùng đoàn kết chặt chẽ hợp thành sức mạnh chung của dân tộc.

Nhưng từ khi Cộng Sản Đệ tam xuất hiện với thủ đoạn độc chiếm lãnh đạo, thì hàng ngũ đấu tranh miền Nam nứt vỡ từ cấp lãnh đạo đến hạ tầng quần chúng. Cuộc kháng chiến Nam bộ cũng vì vậy mà gặp rất nhiều khó khăn.

10- Nguyễn Bình Và Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp
Vào tháng 2-1946, một bộ mặt mới xuất hiện ở miền Nam: tướng độc nhãn Nguyễn Bình, tên thật là Nguyễn Phương Thảo, đã từng bị thực dân Pháp bắt giam một lần với Nguyễn Hòa Hiệp vào năm 1929 khi hai người còn hoạt động dưới danh nghĩa Việt Nam Quốc Dân Đảng tại miền Nam. Sau đó Nguyễn Phương Thảo đổi tên là Nguyễn Bình, bỏ đảng cũ và đầu quân phục vụ Cộng Sản Đệ tam, đến đầu 1946 được Hồ Chí Minh đưa vào để xây dựng lại kháng chiến Nam bộ sau khi Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai đã làm cho tan hoang và bỏ trốn.

Nguyễn Bình một mặt tổ chức lại hàng ngũ kháng chiến, thanh lọc các phần tử không còn thích nghi hoàn cảnh mới, một mặt tìm cách ve vãn các tổ chức đấu tranh để tái tạo không khí hợp tác. Nhưng bài học 1945 với quá nhiều xương máu, làm cho các chiến sĩ quốc gia nhìn Nguyễn Bình với con mắt đầy nghi ngại. Thí dụ liên quân Bình Xuyên lúc đó đang chiến đấu tại chiến khu miền Đông (chiến khu 7) trực tiếp với Nguyễn Bình trong hệ thống quân đội mà Nguyễn Bình là ủy trưởng Quân sự khu 7, các lãnh tụ quân sự Bình Xuyên như Huỳnh Văn Trí, Lê Văn Viễn luôn luôn đề phòng âm mưu của Nguyễn Bình. Tuy không xảy ra xung đột, nhưng cũng không có sự tin cậy để tận tình hợp tác.

Cũng trong thời gian này, tổ chức Phật Giáo Hòa Hảo cũng như Cao Đài đều có các đơn vị quân sự chiến đấu tại miền Đông, cho nên nhà lãnh đạo Phật Giáo Hòa Hảo, Huỳnh Giáo Chủ cũng có mặt thường xuyên tại chiến khu 7.

Sự xuất hiện của tướng Nguyễn Bình đã làm cho các tổ chức cách mạng miền Nam cảnh giác, lại thêm biến cố ký kết hiệp định sơ bộ 6-3-1946 giữa Hồ Chí Minh và Sainteny làm cho giới kháng chiến quốc gia phải xét lại toàn bộ vấn đề, để có thể nắm lấy chủ động tại miền Nam, không thể để Cộng Sản Đệ tam thao túng bằng các âm mưu chính trị và đàn áp quân sự nữa.

Nhiều cuộc tiếp xúc kín đáo đã diễn ra, thảo luận về sự tổng hợp các lực lượng quân sự và quần chúng hiện đang chiến đấu dưới các danh nghĩa riêng, thành một trận tuyến chung. Ngày 2-4-1946, một phiên họp đặc biệt được triệu tập tại địa điểm Bà Quẹo để thành lập một ủy ban Liên hiệp Kháng chiến. Nhưng liên hiệp quân sự không đủ, phải tiến đến liên hiệp chính trị tức liên hiệp toàn bộ. Vì thế, một đại hội quân chính được triệu tập bởi ông Vũ Tam Anh vào ngày 20-4-1946 lúc 13 giờ, gồm đại biểu các đoàn thể, kể ra như sau:

Đại diện tôn giáo gồm có:
§         Đức Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo
§         Lê Văn Tÿ, đại diện Cao Đài Tây Ninh
§         Giáo sư Huỳnh Thơ Hương, đại diện Cao Đài kháng chiến Hậu Giang
§         Lâm Văn Hậu, đại diện Tịnh Độ cư sĩ
§         Linh mục Nguyễn Bá Sang, đại diện Thiên Chúa giáo.

Đại diện các đoàn thể chính trị gồm có:
§         Phạm Thiều, đại diện phòng chính trị khu 7
§         Trần Văn Lâm, đại diện Việt Nam Quốc Dân Đảng
§         Mai Thọ Trân thay mặt Hà Huy Giáp, đại diện Tổng Công Đoàn và Kỳ Bộ Việt Minh
§         Nguyễn Văn Sâm và Nguyễn Bảo Toàn, Lãnh tụ và Tổng thư ký Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng
§         Phạm Hữu Đức, Nguyễn Văn Nhân, đại diện Huỳnh Long Đảng.

Đại diện các lực lượng quân sự gồm có:
§         Lê Trung Nghĩa, đại diện lực lượng kháng chiến
§         Phan Định Công thay mặt Nguyễn Bình khu trưởng khu 7
§         Huỳnh văn Trí, Chỉ huy trưởng Vệ Quốc đoàn Bà Quẹo kiêm đại diện Liên chi Bình Xuyên
§         Lai Hữu Tài, đại diện Vệ Quốc Đoàn địa phương Saigon Chợ lớn
§         Phạm Hữu Đức, Chỉ huy trưởng Chi đội 5 Vệ Quốc đoàn
§         Huỳnh Tấn Chùa, Chỉ huy trưởng Chi đội 12 Vệ Quốc đoàn
§         Vũ Tam Anh, Chỉ huy trưởng Đệ nhị Sư đoàn Dân quân Cách mạng
§         Châu Tyœ, Chỉ huy trưởng Du kích quân địa phương Saigon Chợ lớn
§         Từ Văn Ri và Từ Huỳnh, Chi đội trưởng và Đội trưởng chi đội 12
§         Lâm Văn Đức, Chi đội trưởng chi đội 25
§         Nguyễn Văn Đội tự Sáu Đội, Chi đội 7 đổi lại Trung đoàn 307
§         Nguyễn Văn Mười chi đội trưởng chi đội 8, lực lượng Cao Đài kháng chiến Tây Ninh.

Sau ba ngày thảo luận liên tiếp và sôi nổi, mọi người đều chấp thuận lấy nghị quyết thành lập một mặt trận, mang danh nghĩa Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp với mục đích được minh thị là: huy động toàn lực các đoàn thể tôn giáo, chánh trị, quân sự và quần chúng để chông xâm lăng.

Một Ban Chấp Hành được thành lập với thành phần như sau:
§         Chủ tịch: Hoàng Anh ( Bí danh của giáo chủ Phật Giáo Hòa Hảo)
§         Phó chủ tịch: Vũ Tam Anh
§         Thơ ký: Mai Thọ Trân
§         Tuyên truyền: Lê Trung Nghĩa
§         Ủy viên quân sự: Huỳnh Văn Trí
§         Cố vấn: Phạm Thiều, Phạm Hữu Đức, Trần Văn Lâm.

Ngoài ra còn thành lập ủy ban Quân sự Tối cao, Võ phòng đặt tại ấp Tám làng Vĩnh Lạc (miệt Bà Quẹo, 18 thôn vườn trầu) và có một tờ báo bí mật, tờ Tự Do, làm cơ quan tranh đấu.

Mặt Trận có phái người đi hoạt động miền Trung và Bắc để thành lập ở mỗi nơi một bộ phận hầu thống nhứt lực lượng toàn quốc chống xâm lăng.

Nhìn vào thành phần tham dự đại hội quân chính 20-4-1946 và Ban Chấp hành Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp ta thấy rằng Cộng Sản Đệ tam là một thiểu số: Phạm Thiều, Mai Thọ Trân, (chính trị), Phan Định Công, Huỳnh Tấn Chùa (quân sự). Khuynh hướng quốc gia chiếm đa số.

Sự xuất hiện của Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp biểu lộ ý định của các tổ chức đấu tranh miền Nam muốn lấy lại vị thế chủ động kháng chiến tại Nam bộ, không để cho Cộng Sản Đệ tam thao túng.

Trên bình diện đối ngoại, Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp muốn biểu dương cho thế giới thấy bản chất dân tộc của cuộc kháng chiến và minh thị mục tiêu đấu tranh giành độc lập tự do, khác với mục tiêu cách mạnh vô sản của phe Đệ tam Quốc tế.
Ai cũng nhận Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp quả là một mặt trận thống hợp các lực lượng quốc gia, tạo thành một thế mới cho chánh nghĩa dân tộc. Pháp lo ngại mà Cộng Sản cũng phập phòng không khéo Mặt Trận Liên Hiệp sẽ làm lu mờ M Trận Việt Minh, nên Cộng Sản tìm cách ngăn chận và mưu toan phá cho tan vỡ.

Quân Pháp đổi chiến lược thay vì đem toàn lực tấn công các lực lượng Cộng Sản, chúng đâm mũi dùi và hàng ngũ quốc gia. ở thành, chúng cho công an cảnh sát lục soát, chận bắt các nhân viên của Mặt Trận và phá vở các ổ liên lạc. Hơn 150 nhân viên của Mặt Trận bị bắt, trong đó có các ông Nguyễn Trung Chánh, Nguyễn Thanh Tân bị đày đi Côn Đảo. ở bưng, chúng đem toàn lực thủy lục không quân tấn công các căn cứ quốc gia, đánh dồn về biên giới Cao Miên (Quéo Ba, Thổ Địa, Bình Hòa)

Thừa dịp Mặt Trận Quốc Gia đang đối phó với quân xâm lăng, Cộng Sản tung ra Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam (gọi tắt là Hội Liên Việt), dùng một danh từ tương tợ (Liên Hiệp) để gây sự hiểu lầm trong các giới đồng bào, với dụng ý đem Hội Liên Hiệp đánh tráo Mặt Trận Liên Hiệp. Nguyễn Bình và Phạm Thiều tuyên bố rút ra khỏi Mặt trận và đưa đề nghị đỗi Mặt Trận Liên Hiệp lại thành Hội Liên Hiệp, nhưng đề nghị nầy không được các đoàn thể quốc gia chấp nhận.

Thế là, Cộng Sản, trong lúc tình thế nước nhà đang nguy ngập trước nạn xâm lăng, dùng thủ đoạn mượn danh nghĩa chánh phủ giải tán Mặt Trận.

11- Thế Kẹt Lịch Sử Và Chiến Thuật Gỡ Kẹt
THẾ KẸT LỊCH SỬ BẮT ĐẦU
Trong thời gian này các sinh hoạt chính trị sau đây được ghi nhận:
§         6-1-46 : Việt Minh tổ chức Tổng tuyển cử
§         26-2-46 : Pháp-Trung Hoa ký thỏa ước: Pháp trả lại Tàu các tô giới trên lãnh thổ Trung Hoa để đổi lấy thỏa hiệp Tàu cho quân Pháp đổ bộ lên Bắc Việt.
§         6-3-46 : Hiệp ước sơ bộ 6-3-46 được ký kết tại Hà Nội
§         27-3-46 : Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh được Hội đồng Tư vấn đề cử làm Thủ tướng Chánh phủ Nam Kỳ Tự Trị.
§         1-4-46 : Quân Pháp bắt đầu thay thế quân Tàu ở Bắc Việt.
§         17-4-46 : Hội nghị Đà Lạt họp để thi hành các điều khoản của thỏa ước 6-3-46, phái đoàn Việt Nam do Nguyễn Tường Tam cầm đầu, phái đoàn Pháp do Max André lãnh đạo (đến ngày 24-5, Hội nghị Đà Lạt thất bại và quyết định sẽ tiếp tục thương thuyết ở Fontainebleau)
§         20-4-46 : Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp ra đời ở miền Nam.
§         6-7-46 : Hội nghị Fontainebleau họp (đến ngày 10-9-46 thì ngưng vì không đạt được thoả hiệp về các vấn đề căn bản).
§         14-9-46 : Hồ Chí Minh ký kết thỏa hiệp án 14-9-46tại nhà riêng của Bộ trưởng Thuộc địa Pháp Marius Moutet để vớt vát lấy một chút kết quả của một chuyến đi ngoại giao thất bại.
§         10-10-46: Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh, thủ tướng Nam Kỳ Tự Trị tự vẫn tại nhà riêng, vì thấy mình bị thực dân Pháp lợi dụng và lừa gạt. (Bác sĩ Lê Văn Hoạch sẽ kế vị thủ tướng ngày 4-12-1946).

Những sinh hoạt kể trên cho thấy rằng:
1.       Phía Pháp, vẫn khư khư với chủ trương Brazzaville của tướng De Gaulle nhất định không đề cập danh từ ‘’Độc Lập”; hiệp ước 6-3-1946 và thỏa hiệp án 14-9-1946 chỉ chấp nhận Việt Nam tự trị trong một Liên Bang Đông Dương và một Liên Hiệp Pháp, Nam Kỳ là một Nước Tự Trị, chớ chưa phải là một phần lãnh thổ của Việt Nam thống nhất Bắc Nam Trung.
2.       Phía Việt Minh cố chìu lòng Pháp, chấp nhận điều kiện của Pháp và của Trung Hoa để được công nhận vị thế đại diện chánh thức cho Dân tộc Việt Nam, và từ đó hành xử quyền lực của một chánh phủ để thực hiện chủ trương dĩ đảng trị quốc. Chánh sách tiêu diệt đối lập là hệ quả đương nhiên của chủ trương độc tài đảng trị.
Trước hoàn cảnh đó, người Việt yêu nước nghĩ thế nào?
Người dân chỉ có tấm lòng thương nước, khao khát tự do độc lập, mà không đủ kiến thức, kinh nghiệm để nhìn xa thấy rộng, để thấu hiểu những âm mưu đen tối của cả Pháp và Việt Minh, thì người dân với tâm hồn ái quốc ấy tất nhiên có khuynh hướng ủng hộ Việt Minh chống lại thực dân Pháp; kể cả những người vì hoàn cảnh chiến tranh phải trở về thành sống dưới sự kiểm soát của Pháp, cũng không phải tất cả đều theo Pháp, ngoại trừ một thiểu số ham hố danh lợi cá nhân lợi dụng thời cơ, bất chấp sự tồn vong của đất nước dân tộc mình.

Người chiến sĩ quốc gia có lập trường dân tộc, có mục tiêu đấu tranh để giải phóng dân tộc và đất nước, thì không thể nghĩ giản dị như thế. ở thời điểm này, sau khi tham vọng độc tài của phe Cộng Sản Đệ Tam đã biểu lộ rõ ràng với chánh sách đàn áp, sát hại đối lập để độc chiếm quyền lãnh đạo đất nước, các chiến sĩ quốc gia này đã đi đến kết luận là không thể để cho Cộng Sản Đệ Tam hoá trang dưới danh nghĩa Việt Minh mà độc quyền lãnh đạo cuộc Cách mạng Giải phóng Dân tộc.

Tai hại trước mắt là: về đối nội, tiềm lực dân tộc kháng Pháp sẽ suy yếu và có thể đi đến trạng thái vỡ tung ra từng mảnh. Về đối ngoại, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đặt dưới sự lãnh đạo độc đảng của Cộng Sản Đệ Tam sẽ bị thế giới đồng hoá với cách mạng Cộng Sản và bị bỏ mặc cho thực dân Pháp đàn áp.

Hiểm họa tương lai là: nếu Cộng Sản Đệ Tam củng cố được uy thế, tiếp tục chủ động và hành xử chánh quyền lãnh đạo kháng chiến, quần chúng không nhìn thấu được âm mưu sâu độc hay bị ép buộc bởi chánh sách khủng bố, mà tiếp tục ủng hộ Việt Minh, đến khi thâu hồi chủ quyền quốc gia, đất nước Việt Nam bị đặt dưới sự cai trị của đảng Cộng Sản, nằm trong hệ thống Cộng Sản Quốc tế, với một chế độ độc tài đảng trị, thì sẽ không phải là môt quốc gia thật sự tự do, dân chủ, độc lập, mà sẽ vẫn là một quốc gia bị trị, Cộng Sản thay thế cho Thực dân.

Nhận thức về điều tai hại trước mắt và hiểm họa tương lai vừa diễn tả sơ lược qua mấy hàng trên, đây không những là mối ưu tư hàng đầu của các tổ chức đấu tranh tại miền Nam, mà cũng là lý do chính đáng của thái độ chống Việt Minh đang diễn ra tại Bắc Việt, do các tổ chức cách mạng quốc gia: Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Duy Dân.

Tại Bắc Việt, các tổ chức đối lập này không đương đầu nổi với cái thế chánh quyền của Việt Minh lúc đó đã chính thức ký kết với Pháp và mua chuộc được Tư lệnh đạo quân Trung Hoa (tướng Lư Hán, Tiêu Văn), nên phải rút khỏi Hà Nội, trở ngược lên vùng Thượng Du. Từ đó về sau Việt Minh nắm độc quyền lãnh đạo, quần chúng Trung, Bắc Việt đương nhiên bị chi phối bởi chánh quyền Việt Minh, vì các tổ chức cách mạng đối lập đã thu mình tại biên giới Bắc Việt - Trung Hoa, không có hệ thống tổ chức quần chúng nội địa.

Trong miền Nam, các đoàn thể đối lập có điều kiện khác hơn. Đó là hệ thống “quần chúng có tổ chức” của hai tôn giáo Cao Đài và Phật Giáo Hoà Hảo. Cho nên họ còn nắm được một số đông quần chúng, và còn hy vọng dựa vào hệ thống quần chúng mà củng cố cơ sở và hàng ngũ kháng chiến, để trường kỳ đối phó với quân đội Pháp. Tuy nhiên muốn tạo cho hệ thống quần chúng có khả năng chiến đấu trong một hoàn cảnh chiến tranh, vì phải võ trang quần chúng ở một mức tối thiểu, để quần chúng có thể nhứt thời tự vệ khi bị khủng bố hay tấn công. Người cầm võ khí trong tay phản ứng khác người không có võ khí, mức độ can đảm hay niềm tin cũng có thể khác. Trong hoàn cảnh những năm đầu kháng chiến “1945-1946” kháng chiến quân Việt Nam không có nguồn tiếp liệu võ khí nào từ bên ngoài như hiện nay quân kháng chiến A Phú Hãn, Cao Miên, Nicaragua nhận từ Pakistan, Trung Quốc, Hoa Kỳ... Vì vậy võ khí rất ít, có được là do sự chiếm đoạt hay mua kín đáo của phía địch hay tự chế tạo với phảm chất kém.

Trong hoàn cảnh thiếu hụt võ khí như vậy, quần chúng của hai tôn giáo Cao Đài, Phật Giáo Hoà Hảo trong miền Nam khó nắm được chủ động. Hơn nữa, ưu điểm “có quần chúng đông đảo” lại trở thành nhược điểm “quần chúng đông đảo là mục tiêu dễ dàng cho địch khủng bố và tấn công’’. Đó là thực trạng đã xảy ra ở miền Nam. Quân Pháp thường tấn công tàn phá các vùng dân cư Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo đông đảo để giảm sút tiềm lực yểm trợ của hậu phương cho tiền tuyến. Ngoài ra, Việt Minh, ngoài những đợt khủng bố do chính các đơn vị võ trang của họ thi hành, còn kín đáo đưa khéo tin tức vào hệ thống quân báo, tình báo của Pháp để cho Pháp biết những địa điểm đóng quân hay căn cứ của các cơ quan hành chánh kháng chiến Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo... Cố nhiên, quân đội Pháp khi biết được các tin tức này, mở những cuộc hành quân để bao vây, tàn phá, khủng bố toàn diện. Nhiều làng xã mà dân cư là tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đã bị tiêu hủy, hàng ngàn dân làng bị sát hại tại chỗ qua những cuộc hành quân của Pháp.

Cần phải nói về ưu điểm nhược điểm quần chúng, để hiểu rõ khó khăn lớn lao của các tổ chức đấu tranh miền Nam khi phải đương đầu một lần với hai kẻ địch: Pháp và Việt Minh. Tình thế “lưỡng đầu thọ địch” vẫn là một tình thế khó khăn nan giải nhất của mọi lãnh tụ quân sự trong lịch sử chiến tranh của loài người.

Pháp và Việt Minh biết như thế, nên đã đánh mạnh vào nhược điểm này, làm cho các tổ chức đấu tranh tại miền Nam vô cùng vất vả để đối phó.

Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp ra đời ngày 20-4-1946, như nói ở trên, là một phương thức ứng phó, nhưng chưa kịp phát triển hệ thống tổ chức rộng ra , thì đã bị ngọn đòn phá hoại của Nguyễn Bình: đảy mạnh phát triển tổ chức Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam để tạo hoang mang trong quần chúng về hai danh xưng gần giống nhau: Liên Việt và Liên Hiệp, đồng thời xúc tiến đoàn ngũ hoá quần chúng bên ngoài vào Hội Liên Việt để ngăn chặn sức bành trướng của Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp.

CHIẾN LƯỢC THOÁT KẸT CỦA MIỀN NAM

Trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn ấy, Ban Chấp hành Trung ương Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp đã lấy một quyết định táo bạo: bí mật đưa bộ phận đầu não vào hoạt động ngay trong đô thành Saigon — Chợ Lớn. Một mặt để đánh lạc hướng khủng bố của Nguyễn Bình, một mặt để liên lạc với các giới trí thức yêu nước lúc đó đã bỏ bưng về thành.

Qua các tài liệu của Phật Giáo Hoà Hảo và Cao Đài thì hai nhân vật đầu não là Chủ tịch Hoàng Anh và ủy viên Tuyên truyền Lê Trung Nghĩa đã mạo hiểm về đặt cơ sở của Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp tại Saigon — Chợ Lớn. Hơn một trăm chi bộ của Mặt Trận đã được tổ chức trong đô thành; mặc dầu bộ máy mật thám của Pháp và chánh phủ Nam Kỳ Quốc liên tiếp bố ráp làm cho bộ máy đầu não này phải dời chỗ liên tiếp, nhưng cũng không bị Pháp khám phá.

Tuy nhiên, Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp cũng không thể phát triển tổ chức và hoạt động trong hai vòng vây của Pháp và Việt Minh.

Thực lực quần chúng của Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp là hai tôn giáo Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo lại nằm ở địa bàn nông thôn, không phải tại đô thành. Còn thực lực quân sự của Mặt Trận hiện đang đặt dưới hệ thống chỉ huy chiến đấu của Nguyễn Bình, lúc ấy đã được thăng chức ủy viên Quân sự Nam Bộ (thay vì khu 7 như lúc đầu). Kiểm điểm thực trạng, ban lãnh đạo Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp nhận thấy rằng Mặt Trận không có điều kiện thuận lợi để bành trướng, hình thức tổ chức lỏng lẻo và hoạt động giới hạn của Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp lúc đó không thể đáp ứng nhu cầu khản thiết của cuộc kháng chiến giành độc lập.

Sau nhiều cuộc thảo luận rốt ráo, Ban Chấp hành Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp chấp nhận thực trạng để chuyển hướng theo một chiến lược mới: dời địa bàn hoạt động về miền Hậu Giang, đoạt lấy cái thế chủ động kháng chiến trước hết tại Hậu Giang, và cái thế chủ động ngoại giao sau này. Theo chiến lược này, Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp tạm ngưng hoạt động, để tổ chức Liên Việt của Cộng Sản không còn “mập mờ đánh lận con đen” được nữa, đồng thời cũng làm dịu không khí căng thẳng với Nguyễn Bình, để tiện bề cho các tổ chức quốc gia thi hành các giai đoạn của chiến lược mới.

Mục tiêu chiến lược là đoạt lấy thế chủ động kháng chiến tại miền Hậu Giang, (chiến khu 8 Đồng Tháp và chiến khu 9 U Minh) tạm bỏ chiến khu 7 cho Nguyễn Bình tung hoành, nhưng không cho Cộng Sản Việt Minh bành trướng ở miền Tây (Hậu Giang). Muốn thế phải đi qua các giai đoạn sau đây:
1.       1/ Thành lập một tổ chức chặt chẽ như một chánh đảng, chớ không lỏng lẻo như một mặt trận. Tổ chức này, trước hết phải bao gồm quần chúng miền Tây, cho nên sử dụng khối quần chúng Phật Giáo Hòa Hảo. Tổ chức này cũng phải có một ban lãnh đạo có tầm vóc quốc tế để có thể đảm nhận vai trò vận động ngoại giao. Ngoài ra tổ chức chánh đảng này còn phải đề ra một chủ trương xây dựng một nước Việt Nam tương lai như thế nào để có thể bẻ gẫy luận điệu tuyên truyền của chủ thuyết Cộng Sản, nghĩa là phải có hấp lực mạnh hơn là chủ thuyết Cộng Sản.
2.       Trước khi tranh thủ được vị thế chủ động kháng chiến trên lãnh thổ Hậu Giang , cố gắng tránh đụng độ với Nguyễn Bình để giảm bớt trở ngại.
3.       Vào một thời điểm thuận lợi, di chuyển bất ngờ và kín đáo tất cả các đơn vị quân sự từ chiến khu 7 về chiến khu 8, chiếm lấy Đồng Tháp Mười làm căn cứ địa đầu tiên, nắm lấy các nguồn tiếp liệu lương thực và đóng chốt các hành lang giao liên giữa chiến khu 7 và Hậu Giang, tức giữa ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Nam Bộ và hai chiến khu 8, 9.
4.       Bước kế tiếp của kế hoạch hành động là cô lập hóa Nguyễn Bình ở chiến khu 7, vô hiệu hóa các tổ chức quân chánh của Việt Minh trong nội bộ lãnh thổ hai chiến khu 8 và 9, để từ đó xây dựng, củng cố và phát triển cơ sở của kháng chiến quốc gia trên toàn bộ vùng Hậu Giang, làm bàn đạp tiến tới vị thế chủ lực lãnh đạo kháng chiến Nam Bộ.
5.       Trên bình diện ngoại giao, cần tạo thế liên hoàn với các đảng cách mạng ở miền Bắc đã dời sang Trung Hoa, để khi đã đoạt được thế chủ động ở miền Nam, sẽ đồng loạt tuyên bố dưới danh nghĩa của Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Quốc, không nhìn nhận quyền lãnh đạo Việt Nam của Hồ Chí Minh và Cộng Sản Việt Minh.

Để thực hiện những giai đoạn kế hoạch của chiến lược này, một tổ chức chánh đảng ra đời ngày 21-9-1946 mang tên là Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, đóng vai trò nòng cốt trong bước đầu tiến chiếm miền Tây, bằng quần chúng miền Tây. Đây là một công thức rất thích nghi: hợp nhứt quần chúng cơ cở với trí thức lãnh đạo. Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng ra đời là có ngay lập tức một số đảng viên trên một triệu người, đó là các tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đồng loạt gia nhập. Trên thượng tầng của tổ chức là những khuôn mặt của trí thức lãnh đạo có uy tín tại miền Nam: Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân, Nguyễn Bảo Toàn, Lê Văn Thu, Lâm Văn Tết, Đặng Văn Ký... Sự ra đời của tổ chức này lúc đó đã tạo hứng khởi cho kháng chiến quốc gia nói chung và cho khối quần chúng Phật Giáo Hòa Hảo nói riêng. Với thanh thế đó, Ban Chấp hành Trung ương quyết định xuất bản nhựt báo Quần Chúng để mở màn cuộc đấu tranh chánh trị công khai trên diễn đàn quốc gia và quốc tế, nêu cao các khảu hiệu Độc lập Quốc gia và Thống nhứt Lãnh thổ. Đó là để tranh thủ lấy dư luận của quần chúng và thế giới, làm mất cái thế của chánh phủ Nam Kỳ tự trị, cho nên tờ báo Quần Chúng được quần chúng nhiệt liệt tán thưởng như một luồng gió mới trong sạch, thổi mạnh vào bầu không khí ô nhiễm của những vận động chánh trị phân ly từ phía thực dân, và của khủng bố sắt máu từ phía Việt Minh.

Hành động kế tiếp là gởi đại diện ra ngoại quốc. Đầu 1947 ông Nguyễn Bảo Toàn được kín đáo đưa xuống thương thuyền để xuất dương sang Hồng Kông và Trung Hoa, tiếp xúc với các tổ chức cách mạng lưu vong.

Những nhà cách mạng lưu vong nầy vốn là những lãnh tụ của các đảng chánh trị miền Bắc, sau khi bị Cộng sản liên quân với Pháp đánh bạt ra khỏi Bắc Việt, chạy sang Trung Hoa sống nhờ sự che chở của chánh phủ Trùng Khánh, cầu viện Trung Quốc giúp đỡ xây dựng lại lực lượng quân sự chờ cơ hội kéo về nước.

Sau khi tiếp xúc và thảo luận, ngày 27-2-1947. Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt Toàn Quốc gọi tắt là Mặt Trận Toàn Quốc được thành lập tại Nam Ninh (Trung Hoa).
Mặt Trận gồm có các đoàn thể sau đây tham gia:
§         Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội.
§         Việt Nam Quốc Dân Đảng.
§         Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng Và Phật Giáo Hòa Hảo.
§         Việt Nam Quốc Gia Thanh Niên Đoàn.
§         Cao Đài Giáo.
§         Đoàn thể Dân chúng.
§         Liên đoàn Công Chức.
Một Ban Chấp hành Trung ương được thành lập, phân phối trách niệm như sau:
§         Chủ tịch: Cụ Nguyễn Hải Thần thuộc Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội.
§         ủy viên Ngoại giao: ông Nguyễn Tường Tam thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng.
§         Tổng thơ ký: ông Nguyễn Hoàn Bích tức Nguyễn Bảo Toàn thuộc Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, đại diện cho Cao Đài Giáo và Phật Giáo Hòa Hảo.

Ngoài ra còn có quý ông: Trần Côn tức Trần Văn Tuyên, Lưu Đức Trung tham gia hoạt động.
Về đại diện trong nước thì giao cho ông Nguyễn Văn Sâm.

Trong thời gian từ ngày Đảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội ra đời (21-9-1946) đến ngày thực hiện giai đoạn quân sự then chốt là di chuyển các lực lượng quân sự về miền Hậu Giang (5-4-1947), theo đúng chiến thuật đã ấn định, các tổ chức đấu tranh vẫn giữ hình thức “hợp tác” với ủy ban Hành chánh Kháng chiến Nam bộ. Các đơn vị quân sự tuy đã được tổ chức lại thành Liên quân, nhưng vẫn giữ hệ thống với ủy viên Quân sự Nguyễn Bình tuy rằng vẫn nhứt định không cho phép Nguyễn Bình xen vào nội bộ Liên Quân. Đây là tình trạng hợp tác hành quân, chớ không phải hệ thống hóa toàn bộ, cho nên nhiều lần Nguyễn Bình đề nghị gởi chánh trị viên đến các đơn vị liên quân, đều bị từ chối. Cũng trong đường lối chiến thuật này, Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo nhận lời tham gia ủy ban Hành chánh Kháng chiến Nam bộ ngày 14-11-1946 với chức vụ ủy viên Đặc biệt.


Tuy nhiên tình trạng hợp tác miễn cưỡng “đánh chung đi riêng” không thể tránh được các hệ quả của nó. Đôi bên vẫn giữ thế với nhau, nghi ngại nhau, và không khí ấy ảnh hưởng từ cấp chỉ huy xuống đến binh sĩ và quần chúng đôi bên. Và nhiều trường hợp xích mích, xung đột đã xảy ra. Tại miền Đông, Nguyễn Bình đưa lãnh tụ Lê Văn Viễn lên làm khu trưởng khu 7 với hậu ý là phải đặt toàn bộ Liên quân Bình Xuyên vào hệ thống Vệ Quốc Đoàn, có nghĩa là đặt trong biên chế tổ chức thống nhứt dưới quyền điều động, chỉ huy của ủy viên Quân sự Nam bộ. Việc này đã tạo ra phản ứng chống đối mãnh liệt của phía Bình Xuyên.


Tại miền Tây, nhiều vụ xô xát xảy ra giữa Phật Giáo Hòa Hảo và Việt Minh, tạo ra một không khí căng thẳng có thể đưa đến biến cố trầm trọng. Cho nên vào đầu tháng 4-1947 các tổ chức đấu tranh quốc gia quyết định thực hiện giai đoạn quân sự là di chuyển các đơn vị võ trang của Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, Đại Việt, Bình Xuyên về chiếm Đồng Tháp Mười. Trước đó, đã có một cuộc họp mật với Hộ Pháp Phạm Công Tắc Giáo Chủ Đạo Cao Đài trong một đêm đầu tháng 2-1947 ở tòa thánh Tây Ninh, để kiểm điểm tình thế và xác định kế hoạch.

Trên đường di chuyển về miền Tây, các đơn vị quân sự này gặp hai trở lực. Đó là trận phục kích của chi đội 18 của Nguyễn Văn Xuyến và chi đội 12 của Huỳnh Tấn Chùa thừa lịnh của Nguyễn Bình ngăn chặn đường chuyển quân. Trở lực khác là sự bắn phá của phi cơ oanh tạc Pháp, liên tiếp theo dõi và oanh kích dữ dội mấy ngày, trên tất cả các ghe xuồng di chuyển theo các trục thủy lộ từ miền Đông về miền Tây. Một số cán bộ quốc gia đã bị thương và chết trên các ghe thuyền (trong đó có thi sĩ Khổng Dương). Chính Nguyễn Bình đã lòn tin cho tình báo Pháp biết sự di chuyển này để Pháp oanh tạc.

Do hai trở lực này, một số đơn vị phải dừng lại, cuộc chuyển quân phải chậm trễ. Chỉ có một số đơn vị Phật Giáo Hòa Hảo và Đại Việt di chuyển được, nhờ thông thuộc điạ hình địa vật, nên đã vượt các trở lực mà về Đồng Tháp Mười. Các đơn vị Cao Đài và Bình Xuyên phải kẹt lại, làm cho kế hoạch dùng các lực lượng quân sự chiếm Đồng Tháp không thực hiện được ngay, mà phải chờ đến ngày nào các đơn vị bị kẹt có cơ hội thuận tiện để thực hiện chuyến di chuyển khác.
Nhưng đại sự đã bị ngừng trệ và mục tiêu chiến lược nói trên của các tổ chức đấu tranh quốc gia miền Nam đã không thực hiện được nữa.

Biến cố xảy ra đêm 16-4-1947 đã làm thay đổi tất cả: Việt Minh Cộng Sản ám hại vị lãnh đạo Phật Giáo Hòa Hảo trong một phiên họp tại địa điểm Tân Phú, Đồng Tháp Mười.

Toàn bộ kế hoạch tiến chiếm giành thế chủ động kháng chiến miền Nam về cho khối quốc gia đã bị gẫy đổ từ đó.

Sự bất thành của kế hoạch giành thế chủ động, mà một số chiến sĩ quốc gia đương thời hay gọi là “chiến thuật liên khu miền Tây” tiếp theo là biến cố 16-4-1947 kể trên, đã đưa cuộc diện miền Nam vào một khúc quanh quan trọng, tạo thay đổi lớn lao từ đó về sau.

NHỮNG MẨU CHUYỆN TRONG CHIẾN KHU


Sau đây là một số mảu chuyện trong cuộc sống tại chiến khu miền Đông của Huỳnh Giáo Chủ (1946-1947). Giai đoạn này đánh dấu sự hợp tác chặt chẽ giữa các tổ chức kháng chiến quốc gia như: Cao Đài, Bình Xuyên, Đại Việt, Quốc Dân Đảng, Phật Giáo Hòa Hảo.
12- Những Mẩu Chuyện Trong Chiền Khu
HUỲNH GIÁO CHỦ VÀ CÁC CHIẾN SĨ CÁCH MẠNG

Huỳnh Giáo Chủ thể hiện ý chí chiến sĩ qua hành động sống chung vui với tướng binh, ngày ngày có mặt trong cơ ngũ, cùng ăn chung, cùng ngủ chung với chiến sĩ, không phân biệt cấp bực tớ Thầy.

Ngài cũng băng đồng lội nước, xông pha vào lằn tên mũi đạn, không có một cử chỉ nào tỏ ra cách biệt với anh em quân nhân.

Mấy chị đầu bếp có ý muốn phụng sự Ngài một cách riêng biệt, thì Ngài chẳng ngại lời khiển trách. Bằng cách từ chối khéo léo, đôi khi dọn cơm xong thành một bàn dài, nay Ngài ngồi chỗ này, mai ngồi chỗ khác, chớ không ngồi một chỗ nhứt định. Ngài ngồi xen kẽ với chiến sĩ, thành thử mấy chị đầu bếp có muốn dọn riêng cho Ngài một mâm với món ăn đặc biệt, cũng không thể dọn được.

Có lần, lúc ở miền Đông, quân Pháp kéo đến bắn phá. Ngài cũng như mọi người, xông pha chiến đấu. Chẳng may, Mười Trí trúng đạn, Ngài chẳng ngại đưa lưng cõng qua một khúc rạch, tránh khỏi lằn đạn. Đến chừng tan cuộc, nhiều người bị thương, hoặc nhiều hoặc ít, nhưng riêng Ngài không hề hấn gì. Còn Mười Trí thấy vậy, mới hỏi: “Chú Tư có phép gì nên mới không bị thương?”
Ngài thản nhiên trả lời:
— Tại tụi Pháp bắn dở quá không trúng.
Mặc dầu nói vậy, chớ nhìn cái nón Ngài đang đội, thấy có nhiều vết đạn lủng bay. (*)


Nhiều người đã sống chung với Huỳnh Giáo Chủ tại chiến khu, đều giữ ấn tượng đặc biệt về cách sống bình dị và gan dạ của ông. Trong một lần Ban Lãnh đạo của Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp đang trên đường công tác bí mật, bị quân Pháp phục kích xả súng bắn rất dữ dội, mọi người phải nhảy xuống sông núp. Khi tiếng súng dứt, mọi người vẫn còn đang núp, chờ cho thiệt yên, thì đã thấy Huỳnh Giáo Chủ lội dưới nước, trên vai cõng nhân vật Phạm Hữu Đức, tức Tư Đức, vì ông này bị thương nặng. (*) ...


Đức Huỳnh Giáo Chủ yêu mến liên quân Bình Xuyên, vì anh em chiến sĩ cấp chỉ huy đều còn trẻ, trực tính, hăng say và nhứt là gan dạ. Anh em liên quân cũng rất mong được Huỳnh Giáo Chủ tới thăm, bởi vì ngoài lối cư xử bình dân, lời ăn tiếng nói rất truyền cảm, lại thường có quà tặng cho anh em. Đi theo con người cao dỏng có cặp mắt sáng long lanh như điện luôn luôn mặc bộ đồ bà ba bằng lụa đen, còn có vài người nữa mang theo những bọc quần áo, thuốc men đem đến tặng cho liên quân. (Đây là tiếp liệu của khối tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo thường xuyên chở từ miền Tây lên tiếp tế đơn vị Phật Giáo Hòa Hảo đang chiến đấu ở chiến khu 7 miền Đông).
Đã có một lần, một nhân viên trong bộ tham mưu Trung Đoàn 25 nói đùa rằng:
— Mỗi lần đến thăm anh em, Giáo Chủ có cảm tưởng bị bóc lột không?
Giáo Chủ trả lời rằng:
— Không, tôi có cảm tưởng là được thực sự chia sẻ nỗi khó khăn mọi phương diện của anh em.
Một lần nữa, khi Huỳnh Giáo Chủ ngủ chung với anh em trong bộ tham mưu Trung Đoàn 25, sáng dậy một thanh niên ngỡ ngàng khi thấy chân mình đang gác lên bụng Đức Thầy. Anh vội rút chân về và chữa thẹn:
— Thưa Giáo Chủ, đêm qua tôi mơ thấy có đám mây nhỏ dám che khuất mặt trời.
Huỳnh Giáo chủ cười đáp:
— Có sao! Đó là sự tuần hoàn của tạo hóa.
Ngoài biệt tài đối đáp, Huỳnh Giáo Chủ còn làm cho anh em trong liên quân vô cùng kính nể óc thông minh đặc biệt của Ngài.
Trong một buổi chiều ở chiến khu, có người đề nghị với Huỳnh Giáo Chủ cùng đua tài bắn súng lục. Nguyễn Bình, khu trưởng khu 7 cũng có mặt, và chấp thuận ngay. Bình đưa cây súng Wicker nòng dài lên bắn ba phát, trúng đích là cành cây khô gẫy xuống, làm cho mọi người vỗ tay tán thưởng.
— Bây giờ đến lượt Giáo Chủ.
Huỳnh Giáo Chủ tuy có khảu súng lục Chiêu Hòa, nhưng chưa ai thấy Ngài rút súng ra, hay bắn phát đạn nào. Cho nên đề nghị “đến lượt Giáo chủ thi tài” càng được mọi người cổ võ, chờ đợi.
Huỳnh Giáo Chủ mỉm cười lắc đầu:
— Tôi thấy trước thua khu trưởng rồi. Có bắn hay không cũng thế mà thôi.
Mười Trí bắn thế Huỳnh Giáo Chủ 3 phát, đáp lễ Nguyễn Bình, rồi mời tất cả trở về ấp số 8...

Trong một buổi tiệc vào cuối năm 1946, tại chiến khu miền Đông... Khi nhiều vò rượu đã cạn, một người cao hứng đưa vấn đề tình yêu trai gái ra thảo luận. Chỉ toàn đàn ông, nên chẳng ai dè dặt lời nói.
Nguyễn Bình cũng vui miệng kể chuyện mối tình mình, rồi sau đó quay sang hỏi Huỳnh giáo chủ:
— Thưa Giáo Chủ đã yêu bao giờ chưa?
Mọi người như tỉnh rượu trước câu hỏi đột ngột đặt ra với một vị Giáo Chủ. Họ im lặng đưa mắt nhìn Giáo Chủ. Ngài vẫn thản nhiên gật đầu:
— Có, tôi cũng đã từng yêu, yêu rất nhiều.
Rồi ông cao giọng ngâm bài thơ Tình yêu:

Ta có tình yêu rất đượm nồng,
Yêu đời yêu lẫn cả non sông.
Tình ta chan chứa trong hoàn vũ,
Không thể riêng yêu khách má hồng.
Nếu khách má hồng muốn được yêu,
Thì trong tâm trí phải xoay chiều.
Hướng về phụng sự cho nhân loại,
Sẽ gặp tình ta trong khối yêu.
(Bài thơ này Huỳnh Giáo Chủ làm giữa năm 1946 trong thời gian hoạt động bí mật tại Saigon— Chợ lớn. Lúc đó Ngài cải trang làm người Trung Hoa, ở trọ một gia đình Trung Hoa tại Chợ Lớn. Cô chủ nhà có người em gái, thấy Huỳnh Giáo Chủ đẹp trai dễ thương, thì đem lòng thầm yêu. Nhận thấy thế, và biết không thể ở lâu e bại lộ, Huỳnh Giáo Chủ viết bài thơ Tình Yêu, rồi dọn đi nơi khác.

Trong một buổi trưa, khi Đức Thầy đang nằm nghỉ tại địa điểm đóng binh trong chiến khu miền Đông, anh Bùi Hữu Phiệt Tư lịnh Trung đoàn 25 Bình Xuyên đến thăm, và đọc một bài thơ bốn câu có ý “khích tướng”, như sau:

Non nước ngửa nghiêng vẫn ngủ ỳ,
Ai ơi, tỉnh dậy, dậy rồi đi.
Đi lo sự nghiệp trai thời loạn,
Khỏi thẹn người xưa lúc gặp thì.

Đức Thầy liền ứng khảu họa lại:

Lặng lẽ tính toan, đâu ngủ ỳ,
Chỉnh tu binh mã để rồi đi.
Khi đi muông sói đều tan vỡ,
Rõ mặt hùng anh tạo thế thì.

Anh em chiến sĩ có mặt đều vỗ tay hoan hô nhiệt liệt.
(Miền Đông, mùa xuân 1947) (*)

ĐỐI THOẠI NẨY LỬA GIỮA NGUYỄN BÌNH VÀ LÊ VĂN VIỄN

Giữa Nguyễn Bình và các tổ chức kháng chiến quốc gia miền Nam lúc đó, không khí nghi kÿ rất nặng nề, do chủ trương độc tài đảng trị của Cộng Sản Việt Minh biểu lộ trong nhiều đợt đàn áp khủng bố độc lập.

Sau đây là một mảu chuyện điển hình cho mối tương quan căng thẳng và đầy nghi kÿ, xảy ra tại chiến khu 7 vào giữa năm 1948. Ngày 15-5-1948, văn phòng Bảy Viễn được một mật điện của Chủ tịch ủy ban Hành chánh Nam bộ gọi Tư lịnh Liên khu Bình Xuyên, mời “anh Bảy” đến họp với tướng Nguyễn Bình, ủy viên Quân sự Nam bộ, tại chiến khu Đồng Tháp Mười.

Ngày 20-5-1948, Bảy Viễn rời rừng Sát đến Đồng Tháp phó hội, với một phái đoàn tùy tùng và một đơn vị Bình Xuyên võ trang 200 tay súng. Ngày 25-5-1948, Bảy Viễn sẽ chánh thức nhậm chức Tư lịnh Chiến khu 7, trong một đại lễ có các khu trưởng 8 và 9, với ủy ban Hành chánhNam bộ tham gia. Ngày 28, Bảy Viễn và và hai nhân vật tín cản đến chỗ họp.
Phiên họp bắt đầu. Tướng độc nhãn Nguyễn Bình mở lời:
— Bây giờ ta phải xét vấn đề tổ chức quân sự và lãnh thổ. Từ khi đồng chí Bảy Viễn nhận chức vụ khu trưởng chiến khu 7, hẳn đồng chí đã ý thức các vấn đề kyœ luật và trách nhiệm. Kể từ nay, đồng chí không còn là Tư lịnh Bình Xuyên hợp tác với kháng chiến, mà là một sĩ quan cao cấp của quân đội cách mạng. Có nghĩa là đồng chí phải tuân hành mệnh lệnh Ban Hành chánhNam bộ và ủy viên Quân sự (tức Nguyễn Bình). Chúng ta không thể chống giặc mà không thống nhứt hệ thống. Mọi đặc điểm riêng không được tồn tại nữa.

Phía Bảy Viễn, một vị đứng lên xin nói:
— Tôi xin trình bày cho rõ một điểm. Tổ chức Bình Xuyên không đợi đến khi Trung tướng Nguyễn Bình tới chiến trường Nam Bộ mới bắt đầu chiến đấu. Từ ba mươi tháng nay, chúng tôi đã đánh nhau với Pháp và đã có hơn 300 chiến sĩ hy sinh tại các mặt trận. Suốt 1.000 ngày chiến đấu đó, chúng tôi không hề nhận được của Cục quân nhu Việt Minh một hột gạo tiếp tế, một con cá khô hay một khảu súng, một viên đạn nào cả. Những đoàn quân chuyển vận võ khí tiếp liệu từ Bắc vào chiến trường Nam Bộ đã đi ngang qua địa phận chúng tôi đóng quân, và được chúng tôi bảo vệ, tiếp nhận, chuyên chở đến nơi đến chốn. Không một chiến sĩ Bình Xuyên nào được lãnh một xu lương bổng. Cả ủy ban Hành chánh Nam bộ lẫn Quân ủy không ai cung cấp cái gì cho Bình Xuyên...

Tướng Nguyễn Bình lạnh lùng nói:
— Các đồng chí đã có Maurice Thiên và người Tàu Chợ Lớn tiếp tế tiền bạc và nhu cầu rồi.
— Đúng vậy. Chúng tôi phải thâu thuế trong khu vực chúng tôi kiểm soát, cũng như các đồng chí thâu thuế trong khu vực do quý cơ quan kiểm soát.
— Vậy đồng chí còn than phiền điều chi?
— Chúng tôi không than phiền, mà chỉ nói cho rõ vấn đề. Tất cả chúng tôi đều tin tưởng nơi sự sáng suốt và lòng can đảm của đồng chí. Nhưng chúng tôi không hài lòng về cung cách đồng chí đối xử với chúng tôi. Bình Xuyên đã chiến đấu từ trước khi đồng chí vào tới Nam Bộ, đồng chí không hề đề nghị giúp đỡ gì chúng tôi, mà đồng chí chỉ hạ lịnh bắt chúng tôi phải thi hành.

Tướng Nguyễn Bình cười gằn:
— Các đồng chí có tuân hành mệnh lệnh của tôi đâu, đồng chí hiểu chớ!
— Đồng chí nói sai rồi. Tất cả những nhiệm vụ mà đồng chí chỉ thị, chúng tôi đã thi hành trọn vẹn. Chúng tôi chỉ từ chối sự kiểm soát của những chánh trị viên mà đồng chí gửi tới, đồng chí có hiểu lý do tại sao không?
— Tôi muốn nghe đồng chí nói rõ — Lời của Chủ tịch ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ.
— Đây là sự thực. Chúng tôi nghĩ rằng các chánh trị viên không có gì để dạy dỗ chúng tôi. Chúng tôi đã ý thức cầm súng chiến đấu vì nền độc lập của tổ quốc, và để đòi tự do. Chúng tôi không chiến đấu cho một chế độ đảng trị, hay để củng cố uy quyền lãnh đạo đã nhẫn tâm tàn sát đồng đội một cách ác độc hơn là đối với quân thù...

Tướng Nguyễn Bình đã đặt tay lên bá súng lục đeo bên hông gằn tiếng hỏi:
— Đồng chí muốn ám chỉ ai?
— Là đồng chí Nguyễn Bình. Đúng vậy.

Tướng Nguyễn Bình vụt rút súng ra khỏi vỏ. Phía bên Bình Xuyên, người chỉ huy đội hộ vệ cũng lên cò cây tiểu liên tự động Thomson, nhắm ngay vào Nguyễn Bình.
— Xin Trung tướng bình tĩnh lại.


Chủ tịch ủy ban Hành chánh Nam bộ nhìn người chỉ huy Bình Xuyên, thấy nét mặt cương quyết, ngón tay đặt sẵn trên cò súng, sẵn sàng nổ súng. Viên chủ tịch nghĩ thầm trong trí, nếu khảu tiểu liên kia ria một tràng đạn, thì trong phòng họp này không ai sống sót. Ông ta run giọng can gián:

— Tất cả bình tĩnh lại. Chúng ta đều là anh em đồng chí cả...
Không khí bớt nặng nề, đôi bên bỏ súng xuống. Viên chủ tịch nói:
— Đồng chí vừa phát biểu những điều kết tội, vậy đồng chí có thể chứng minh cho rõ trắng đen không?


Tức thì Bảy Viễn đứng lên tiến tới phía trước, bên hông đeo tòn ten khảu súng lục:

— Tôi xin nói.
Và Bảy Viễn nhìn thẳng về phía Nguyễn Bình:
— Nếu tôi phải kể hết mọi tội ác mà đồng chí đã phạm đối với các chiến sĩ quốc gia, thì phải nói cả giờ đồng hồ mới hết. Tôi chỉ muốn nói đến một vụ: Tại sao đồng chí ám hại giáo chủ Hòa Hảo?
— Đó là kẻ lúc nào cũng mưu tính diệt Cộng Sản và cá nhân tôi. Cho nên phải tiêu diệt.
— Nói láo!
Bảy Viễn gầm lên. Nguyễn Bình cũng nổi giận đùng đùng. Chủ tịch ủy ban Hành chánh phải can gián. Bảy Viễn lại lên tiếng:
— Đồng chí tự tin bởi đồng chí nghĩ rằng kẻ khuất mặt không thể nói lên sự thật được. Nhưng còn tôi đây, tôi còn sờ sờ đây, thì tôi phải nói. Tôi kết tội đồng chí đã hai lần âm mưu ám sát chính tôi.

Nguyễn Bình bậm môi cười, phản công:
— Không thể kết án vô bằng chứng như thế. Tôi thách đồng chí trưng bằng cớ ra đây.
— Đồng chí lầm rồi. Tôi đang nắm trong tay một bằng cớ còn hùng biện hơn là nhân chứng nữa. Đó là tài liệu do chính tay đồng chí Nguyễn Bình ký tên chỉ thị cho ban ám sát...

Bảy Viễn rút trong túi ra một mảnh giấy gấp tư, đã lấy được trong người của tên sát thủ năm 1947, và đặt tờ giấy đó lên mặt bàn. Nguyễn Bình lặng lẽ mở tấm giấy, nét mặt mờ đi, giận đến run lên. Chủ tịch ủy ban Hành chánh Nam bộ cầm lấy tờ giấy, và chính ông cũng giận run. Một bầu không khí im lặng nặng nề đè trên phòng họp. Viên chủ tịch quay sang hỏi Nguyễn Bình:
— Có phải đây là chữ ký và con dấu của đồng chí không?

Nguyễn Bình quay mặt đi, nghiến răng nói:
— Chính hắn đã nhiều lần mưu sát tôi, đoàn hộ vệ của tôi đã chết về tay hắn.
Viên Chủ tịch nói nhỏ:
— Chuyện này quan trọng lắm, phải báo cáo về Trung Ương. Yêu cầu các đồng chí chờ tôi.
Bảy Viễn không trả lời, từ từ đi ra khỏi phòng họp.

Trên đường từ Đồng Tháp trở về rừng sát, Bảy Viễn và đoàn tùy tùng bị phục kích trong đêm tối. Nhưng vỏ quít dày có móng tay nhọn, Bình Xuyên đã đề phòng chuyện đó, biết rằng thế nào Nguyễn Bình cũng làm như thế,cho nên họ đã thoát vòng phục kích của Trung đoàn 306 do chính Nguyễn Bình bố trí...(*)

Sau lần đụng độ này, Bình Xuyên biết không còn cách nào cộng tác với Việt Minh được nữa, cho nên tìm cách liên lạc với Saigon, và ngày 17-6-1948, ông Lê Văn Viễn cùng toàn bộ binh sĩ Bình Xuyên về hợp tác với Chánh phủ của Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân.
13- Việt Nam Dân Chủ Xã Hôi Đảng
Ngày 21-9-1946, Huỳnh Giáo Chủ và một số trí thức có khuynh hướng quốc gia, công bố việc thành lập chánh đảngViệt Nam Dân Chủ Xã Hội.

Phật Giáo Hòa Hảo là một tôn giáo. Chủ trương chung của tôn giáo là cải thiện con người, nhưng tôn giáo Phật Giáo Hòa Hảo lại mạnh dạn bước vào hai địa hạt: giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội. Có thể nói rằng vị Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo đã đề xướng một lần ba cuộc cách mạng:
§         Cách mạng con người.
§         Cách mạng giải phóng dân tộc.
§         Cách mạng xã hội.

Từ địa hạt siêu hình của tôn giáo, Phật Giáo Hòa Hảo bước vào địa hạt thực tiễn của xã hội. Khơi dậy lòng ái quốc của con người, ý thức họ nhập cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, tranh đấu đánh đuổi thực dân Pháp, điều này vẫn còn nằm giữa ranh giới siêu hình và thực tế, vì yêu nước là một tình cảm, và tinh thần đấu tranh thể hiện lòng ái quốc vẫn thường mang tính chất trừu tượng. Nhưng bước vào địa hạt cách mạng xã hội, là bước từ siêu hình sang thực tiễn. Cách mạng xã hội phải có lý thuyết và hành động thực tiễn, không thể siêu hình hay trừu tượng như tôn giáo và ái quốc.

Cho nên sự ra đời của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng vào ngày 21-9-1946 được xem là một quyết định quan trọng, và cũng là một chuyển hướng mới của Phật Giáo Hòa Hảo. Dư luận vẫn cho rằng Phật Giáo Hòa Hảo là một đạo nhập thế, nhưng nhập thế ở mức độ tiêu cực hay tích cực? Nhập thế trên bình diện tôn giáo hay trên các bình diện khác của sinh hoạt xã hội?
Phật Giáo Hòa Hảo có sẵn điều kiện cơ bản về tổ chức để chuyển thành một chánh đảng. Khác với đạo Phật nói chung tại Việt Nam, Phật Giáo Hòa Hảo là một khối quần chúng có tổ chức thành hệ thống hàng ngũ (an organized mass), chớ không phải chỉ là một khối quần chúng tâm lý (a psychological mass). Sự khác biệt giữa hai loại quần chúng có tổ chức và quần chúng tâm lý là: quần chúng hướng về một giáo lý hay chủ thuyết, nhưng không minh bạch liên kết thành một tổ chức có hệ thống chặt chẽ. Đây là quần chúng tâm lý, không có sự ràng buộc chặt chẽ, kyœ luật chặt chẽ để trở thành một khối đồng nhứt.

Trái lại, quần chúng có tổ chức thể hiện sự hưởng ứng tư tưởng và tâm lý thành hình thức gia nhập tổ chức, chấp nhận đặt mình trong hệ thống của tổ chức, chịu kyœ luật và lãnh đạo chung của tổ chức, hành động theo chỉ thị của cấp lãnh đạo.

Thí dụ cụ thể, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo là quần chúng tâm lý của đạo Phật, nhưng là quần chúng có tổ chức của Phật Giáo Hào Hảo, hành động theo đường lối, chỉ thị ban hành bởi cấp chỉ đạo hệ thống Phật Giáo Hòa Hảo.

Nói chung, tại Việt Nam, quần chúng các chánh đảng là quần chúng có tổ chức, quần chúng các tôn giáo là quần chúng tâm lý. Trường hợp đặc biệt và ngoại lệ: hai tôn giáo Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo, tuy là tôn giáo, nhưng lại là hai khối quần chúng có tổ chức. Cả hai tôn giáo này tích cực nhập thế, tham gia các hoạt động cách mạng, chánh trị, kể cả hình thức cao nhất là võ trang thành lập các đơn vị quân sự, theo nhu cầu của giai đoạn đấu tranh đặc biệt từ 1940 về sau.

Đảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội ra đời năm 1946 là cái mốc đánh dấu bước tiến của tổ chức Phật Giáo Hòa Hảo vào cách mạng xã hội. Phần tài liệu trích dẫn sau đây nói về lược sử của chánh đảng này:

Ngày 21-9-1946, Đức Huỳnh Giáo Chủ loan báo một tin quan trọng: Ngài thành lập một đảng chánh trị lấy tên là VIỆT NAM DÂN CHủ XÃ HỘI ĐảNG, gọi tắt là DÂN XÃ ĐảNG.

LÝ DO THÀNH LẬP


Vài ngày trước khi công bố, Đức Huỳnh Giáo Chủ có đòi một số tín đồ tín cản từ miền Tây lên, và ngài dạy rằng:
1.       Việt Minh tranh đấu chánh trị, nếu Thầy đem đạo (Phật Giáo Hòa Hảo) ra tranh đấu thì không thích hợp. Vì đạo lo tu hành chơn chất. Nên Thầy phải tổ chức đảng chánh trị, mới thích ứng nhu cầu tình thế nước nhà.
2.       Các nhà ái quốc chơn chánh trong nước mặc dầu nhận Thầy là một nhà ái quốc, nhưng không hề cùng hiệp chung với Thầy dưới danh nghĩa Phật Giáo Hòa Hảo để lo việc quốc gia, bởi lẽ anh em ấy không thể tu hành như mình, hoặc giả đã có đạo rồi thì không thể bỏ đạo quy y Phật Giáo Hòa Hảo. Vì vậy, Thầy phải tổ chức chánh đảng để anh em ấy có điều kiện tham gia. Họ chỉ phải giữ kyœ luật của Đảng mà thôi, còn tôn giáo thì riêng ai nấy giữ.
3.       Vậy tất cả anh em tín đồ, nếu thấy mình còn nặng nợ với Non sông Tổ quốc, thương nước thương dân, hãy tham gia đảng (VNCHXHĐ) mà tranh đấu. Đây là phương tiện để anh em hành xử Tứ-Ân.
(Dẫn trích theo lời tường thuật của ông HHP, trình bày cuộc diện kiến Đức Huỳnh Giáo Chủ tại Chợ Lớn, để đem thông điệp truyền khảu của Ngài về miền Tây phổ biến cho tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo).

Ba điểm trên đây là những lời giải thích của đức Huỳnh Giáo Chủ cho các tín đồ hiểu rõ lý do Ngài khai sanh Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng. Nghiên cứu sâu vào phần lý luận, sự ra đời của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng phát sanh từ các căn bản sau đây:
— Về NGUYÊN LÝ: Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng thoát thai từ căn bản giáo lý Tứ Đại Trọng Ân, gọi tắt là Tứ Ân, xiển dương bởi Đức Phật Thầy Tây An trước kia (1849-1856), và Đức Huỳnh Giáo Chủ (1939 về sau). Người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo hành xử Tứ Ân, có bổn phận tích cực đền đáp Ân Đất nước và Đồng bào.

Từ giáo lý Tứ Ân, Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng ra đời như một phương tiện cần thiết và thích nghi cho người tín đồ đền đáp Ân Đất nước và Đồng bào.
— Về CHỦ THUYẾT: Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng phát sanh từ quan niệm căn bản: dung hòa ưu điểm của chủ thuyết dân chủ tự do với ưu điểm của chủ thuyết kinh tế xã hội hóa. ViệtNam không thể là một xã hội vô sản như chủ thuyết cộng sản, cũng không thể là một xã hội tư bản để kẻ mạnh hiếp đáp bóc lột kẻ yếu kém. Chủ thuyết dân chủ xã hội nhằm thực hiện một xã hội dân chủ có tự do cho con người, đồng thời có công bằng về quyền lợi kinh tế.

Trong hoàn cảnh 1945-1946, nhiệm vụ trước mặt của toàn dân là đánh đuổi thực dân Pháp, nhưng nếu sau khi độc lập rồi, mà dân tộc Việt Nam vẫn phải tiếp tục sống trong bất công, nghèo khó, vẫn bị mất tự do, bị kềm kẹp, thì chưa có giải phóng thực sự. Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng ra đời là một tiên liệu sáng suốt vạch trước cho dân tộc con đường thích hợp, sau giai đoạn giải phóng đất nước, là giai đoạn giải phóng con người, xây dựng lại một đất nước độc lập, phú cường, với một xã hội Việt Nam công bằng và tự do.

— Về CHIẾN THUẬT: Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng ra đời như một nhu cầu khản thiết của tình thế lúc đó. Các đảng phái cách mạng Việt Nam ra đời trước đó thể hiện mạnh mẽ khuynh hướng giải phóng quốc gia hơn là biểu lộ đường lối xây dựng xã hội Việt Nam thích nghi với hoàn cảnh thế kyœ 20. Trong khi đó, đảng Cộng Sản Đông Dương tuy nêu cao chiêu bài ‘’Độc lập, Tự do, Hạnh phúc’’, nhưng đã nuôi sẵn hậu ý đưa xã hội Việt Nam đến một chế độ vô sản chuyên chính. Thanh niên Việt Nam lúc đó, với lòng yêu nước nồng nhiệt, say sưa chiến đấu vì độc lập đất nước, đang bị Cộng Sản đầu độc bằng chủ nghĩa Mác Lê, có thể nhận định sai lầm mà cho rằng Cộng Sản chủ nghĩa là xuất lộ duy nhứt cho tương lai Việt Nam.

Đó là một nguy cơ trầm trọng. Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng ra đời vừa để vạch một chủ trương tiến bộ dựng nước, cũng vừa là liều thuốc đề kháng vi trùng Cộng Sản, giải độc cho lớp thanh niên đang sắp bị sa vào cạm bẫy Cộng Sản.

Do đó, có thể xem sự thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng là một chiến thuật đối đầu với chủ nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam, đối phó hiểm họa xích hóa Việt Nam.
Tóm lại, sau đây là những lý do chánh yếu thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng:
1.       Tạo môi trường hợp tác giữa Phật Giáo Hòa Hảo và các nhà ái quốc chơn chánh để tăng cường hiệu năng kháng Pháp (phối hợp giữa quần chúng và trí thức).
2.       Vạch một chủ trương tiến bộ để xây dựng đất nước sau khi thâu hồi độc lập.
3.       Đối kháng âm mưu xích hóa Việt Nam của đảng Cộng Sản Đông Dương.
4.       Tạo môi trường thích hợp cho tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tham gia đấu tranh, hành xử Tứ Ân.
5.       Trong thời điểm ấy, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng được xem là một đảng tiến bộ, và cũng vì thế bị Cộng Sản xem như một đối thủ nguy hiểm cần phải diệt trừ.

14- Quá Trình Hoạt Động Việt Nam Dân Chủ Xã Hôi Đảng
Trong lịch sử hình thành chánh đảng, chưa bao giờ có sự kiện đặc biệt như tiến trình thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, lập tức có ngay trên một triệu đảng viên. Cũng chưa có chánh đảng Việt Nam nào có số đảng viên cao đến cả triệu người. Chỉ một thông điệp truyền khảu của Đức Thầy ban ra, khối tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo trở thành trên một triệu đảng viên Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng.

Mặc dầu phải hoạt động bí mật, đương đầu với sự khủng bố khốc liệt của thực dân Pháp, hệ thống Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng đã bành trướng, các công tác cách mạng của đảng đã được thực hiện một cách hiệu quả, trong thời gian kyœ lục, để kịp thời ứng phó với một tình thế dầu sôi lửa bỏng.
§         Thành lập Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Bộ, ngay tại thủ đô Saigon, mà vẫn hoạt động bí mật.
§         Thành lập Ban Chấp Hành Liên Tỉnh Miền Tây Nam Việt để lãnh đạo trực tiếp công cuộc chiến đấu của Đảng tại các tỉnh miền Tây.
§         Thành lập hệ thống Ban Chấp Hành Đảng từ Tỉnh, Quận đến mọi Xã.
§         Phát hành nhựt báo Quần Chúng làm cơ quan tuyên huấn cho lý tưởng Dân chủ Xã hội, với đường lối vừa chống Thực dân vừa chống Cộng sản. Cũng là diễn đàn tranh đấu chống lại âm mưu chia cắt đất nước lúc đó của thực dân Pháp. Báo Quần Chúng mỗi ngày được vận chuyển qua một hệ thống đặc biệt đưa từ Saigon về các tỉnh miền Tây, phân phối tận các xã.
§         Tổ chức lớp huấn luyện cán bộ Dân Xã. Lớp đầu tiên đào tạo những thanh niên cán bộ nòng cốt, được tổ chức ngay tại Chợ Lớn, dưới hình thức lưu động liên tiếp để tránh màn lưới mật thám Pháp.
§         Tổ chức cơ quan huấn luyện chánh trị và quân sự ở miền Tây để đào tạo cán bộ điều hành hệ thống Ban Chấp Hành đảng.
§         Yểm trợ tiếp liệu và tình báo cho các đơn vị quân sự chiến đấu ngoài mặt trận.
§         Thiết lập hệ thống liên lạc bí mật từ thành ra chiến khu, từ Trung Ương đến các cấp, để phối hợp công tác, chuyển vận tài liệu, chỉ thị.
§         Đề cử đại diện Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng tham gia các ủy ban Hành chánh Kháng chiến các cấp, để tăng cường hiệu năng chiến đấu chống Pháp.

Trước sự bành trướng thần tốc và sâu rộng của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, Cộng Sản và thực dân Pháp tìm mọi cách để cản trở, phá hoại. (Một điều đặc biệt cần ghi lại, là không phải chỉ các tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo gia nhập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, mà phong trào dân chúng, nhứt là giới thanh niên ngoài đạo Phật Giáo Hòa Hảo cũng hưởng ứng tham gia Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng rất nhiều, khiến cho Cộng Sản rất lo ngại. Các giới bên ngoài hưởng ứng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng vì nhận thức tánh chất tiến bộ và thích nghi của chủ trương Dân Chủ Xã Hội). Thủ đoạn sâu độc nhứt của Cộng Sản lúc đó là mượn tay quân đội Pháp để bắt bớ cán bộ Dân Xã, tiêu hủy cơ sở Dân Xã, khủng bố tàn nhẫn những vùng đông đảo tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo. Cộng sản tìm cách gài nhân viên vào hệ thống mật thám Pháp, đưa tin cho phòng nhì hay công an Pháp biết về địa điểm, cán bộ, tổ chức và sanh hoạt của Dân Xã, để quân đội Pháp kéo đến khủng bố, tiêu hủy nhà cửa, bắn giết dân chúng. Ngay tòa soạn báo Quần Chúng cũng bị liệng lựu đạn.

Cũng vì dã tâm đó mà tình thế trở nên căng thẳng giữa Dân Xã và Việt Minh Cộng Sản, đưa đến những xô xát đẫm máu vào đầu 1947. Trong tình huống đó, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng tiên liệu sự bế tắc của cuộc kháng chiến, và nguy cơ độc tài đảng trị của Cộng Sản, cho nên đã quyết định phái đại diện của đảng, bí mật xuất ngoại đi Trung Hoa, Hồng Kông gặp Cựu hoàng Bảo Đại, cùng đại diện các đảng phái quốc gia thảo luận về sự hình thành một giải pháp quốc gia thay thế vai trò Cộng Sản Việt Minh. Một mặt trận ra đời tại Nam Ninh, ngày 27-2-1947 lấy tên là Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt Toàn Quốc.

Để cứu vãn một tình trạng nguy hiểm, một ủy ban Hòa giải được thành lập để giải quyết những vụ xung đột giữa Dân Xã và Việt Minh ở miền Tây. Nỗ lực này bị vô hiệu hóa bởi sự thiên vị trong thành phần ủy ban, và bởi ý định của Cộng Sản nhứt định đánh phá để tiêu diệt Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng.

Sau hết, Đức Huỳnh Giáo Chủ phải quyết định thân hành về miền Tây để giải quyết tình thế căng thẳng tột đô. Và, như mọi người đã biết, Cộng Sản Việt Minh âm mưu ám hại Ngài, ngay trong lúc Ngài hội nghị với họ (16-4-1947)

15- Sau Khi Huỳnh Thủ Lảnh Ra Đi
Sau khi Đức Thầy ra đi, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng ở vào một tình thế vô cùng khó khăn. Trước mặt là quân xâm lược Pháp, sau lưng là Cộng Sản khủng bố. Trung thành với đường lối chống thực dân, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng cố thủ vị trí bí mật, nhưng Pháp quyết không để yên, tìm cách bắt bớ các cán bộ Dân Xã. Chủ ý của Pháp lúc đó là làm tê liệt bộ máy Dân Xã, tức vô hiệu hóa bộ phận lãnh đạo chánh trị, để quân đội Pháp có thể chủ động tình thế, bởi Pháp cần có sự hợp tác của các đơn vị võ trang Phật Giáo Hòa Hảo để đối phó với Cộng sản.

Cuối năm 1947, hai ủy vên Trung ương Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng bị ám sát chết: Ông Nguyễn Văn Sâm bị giết tại Chợ Lớn (10-10-1947) và bác sĩ Trần Văn Tân bị giết tại Gia Định (11-1947).

Trong tình thế nan giải đó, một Đại Hội Quân Chính được triệu tập, và sau đó Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng tuyên bố tạm đình chỉ công tác, rút hẳn vào bất động. Ba tờ báo, cơ quan truyền huấn của Dân Xã cũng đình bản: tờ Quần Chúng tại Saigon, tờ Dân Xã tại miền Tây, và tờ Nợ Nước của bộ phận huấn luyện Liên tỉnh. Đình bản để địch không hiểu biết gì về hiện tình Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng nữa (1948)

Các cán bộ Dân Xã được phân tán, một số chuyển sang công tác mới trong địa hạt văn hóa, giáo dục, và tôn giáo, với ý thức bảo tồn tiềm năng cán bộ, đồng thời nuôi dưỡng lý tưởng cho lớp trẻ. Các nhà in báo được chuyển sang in sách và kinh giảng. Nhiều trường học được thành lập, như trường trung học Nguyễn Trung Trực (Long Kiến, Long Xuyên) trường trung học Hòa Hảo (Thánh Địa Hòa Hảo, Châu Đốc), trường trung học Kinh Dương (Chợ Mới, Long Xuyên). Các cơ sở huấn luyện quân chính cũng đóng cửa, chuyển sang huấn luyện về giáo lý.

Nói chung, hoạt động Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng lúc đó bị trầm xuống, trong một tình thế vô cùng khó khăn, nhưng được chuyển hướng sang tôn giáo và văn hóa.

Tuy nhiên, một số cán bộ Dân Xã vẫn bí mật hoạt động, nhưng giới hạn. Năm 1950, khi tổ chức Nghĩa Quân Cách Mạng (do ông Lê Quang Vinh tự Ba Cụt chỉ huy) cải tổ thành quân lực Dân Xã, một số cán bộ cao cấp của Dân Xã tái lập tổ chức Đảng, hoạt động bí mật trong bưng biền. Ban chấp hành Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng do ông Trình Quốc Khánh làm Tổng Bí thơ hoạt động trong chiến khu cho đến khi Đại tá Lê Quang Vinh về hợp tác với quân đội quốc gia, thì đảng quyết định ra công khai, hợp thức hóa về mặt pháp lý để trở thành một chánh đảng hợp pháp trong phạm vi luật lệ quốc gia Việt Nam (1954).

Đến khi hiệp định Giơ-neo ký kết, lực lượng Lê Quang Vinh ra tuyên ngôn phản đối sự chia cắt đất nước, rồi rút vào bưng. Ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh, ứng phó tình thế trong Nam với một chánh sách sai lầm, và với cái nhìn phiến diện, ngắn tầm đối với các tôn giáo trong Nam. Ông ra sắc lịnh giải tán Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, cấm hoạt động. Nhưng đảng đã bất chấp sắc lịnh đó, vẫn tiếp tục hoạt động bí mật, dù cơ sở tại Saigon đã bị tịch thâu.

Năm 1955, để nối tiếp các hoạt động Dân Xã, quý ông Phan Bá Cầm, Nguyễn Bảo Toàn đứng tên xin hợp thức hóa đảng trở lại, dưới danh xưng là ĐảNG VIỆT NAM DÂN CHủ XÃ HỘI (thay vì VIỆT NAM DÂN CHủ XÃ HỘI ĐảNG, chỉ đặt chữ đảng lên đầu thay vì ở cuối). Lý do là theo luật pháp lúc đó Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng đã bị giải tán rồi, nay hợp thức hóa phải có sự thay đổi để thích nghi nhu cầu pháp lý.

Nhưng chỉ ít lâu sau, đảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội cũng trở thành nạn nhân của chế độ Ngô Đình Diệm. Đây là một kế hoạch khủng bố hai mặt. Vừa khủng bố đảng Việt Nam Dân chủ Xã hội (ông Nguyen Bảo Toàn, Phan Bá Cầm) ngoài thành, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng (ông Trình Quốc Khánh) trong bưng. Ông Trình Quốc Khánh bị bắt giam, ông Nguyễn Bảo Toàn phải trốn sang Cao Miên, rồi qua Mỹ (1956). Ông Phan Bá Cầm bị bắt giam tại Saigon sau cuộc đảo chánh hụt 11-1960. Toàn bộ đảng bị chế độ Ngô Đình Diệm khủng bố tứ phía. Rất nhiều cán bộ đảng bị bắt. Năm 1963, mật vụ của chế độ Ngô Đình Diệm đã thủ tiêu một số cán bộ cao cấp Dân Xã: Nguyễn Bảo Toàn, Phạm Xuân Giá, Trần Văn Tập, Lê Hoài Nam, Huỳnh Thiện Tứ, Huỳnh Hữu Thiện...

Sau khi Đệ nhất Cộng Hòa chấm dứt (1963), Phật Giáo Hòa Hảo có cơ hội phục hoạt, gây dựng lại cơ sở. Đó cũng là cơ hội để Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng chấn chỉnh lại hàng ngũ đã bị đánh phá suốt chín năm qua dưới chế độ Đệ nhứt Cộng Hòa.

Tới năm 1966, các bộ phận Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng hợp nhứt trong một tổ chức Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng thống nhứt. Từ thời kỳ này, Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng phối hợp với các đảng cách mạng như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Duy Dân, Phục Quốc Hội thành lập tổ chức chung lấy tên là LỰC LƯỢNG DÂN TỘC VIỆT, với bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ làm Chủ tịch, và ông Phan Bá Cầm làm Tổng Bí thơ. Lực lượng Dân tộc Việt là một tổ chức dung hòa các chủ thuyết của các đảng cách mạng Việt Nam, để có một cương lĩnh duy nhứt, một tổ chức cách mạng chung, cùng tranh đấu cho mục tiêu Cứu nước và Dựng nước.

Sau 30-4-1975, Cộng Sản toàn chiếm Việt Nam, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng lại một lần nữa bị đàn áp tàn nhẫn. Toàn bộ các cán bộ đảng bị bắt giam. Hai vị Tổng bí thơ Phan Bá Cầm và Trình Quốc Khánh bị chết vì không chịu nổi sự hành hạ tinh thần và thể chất trong khám đường Cộng Sản. Rất nhiều cán bộ cao cấp bị đưa ra Bắc Việt giam giữ, cho tới nay vẫn chưa được trả tự do.

16- Một Bản Tổng Kết Đau Thương Nhưng Oai Hùng
Sau gần bốn mươi năm hiện diện, bản tổng kết của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng là một danh sách thật dài của những hy sinh, gian khổ, tù đày, tàn sát.

Hai ủy viên Trung ương bị ám sát (Bác sĩ Trần Văn Tâm, ông Nguyễn Văn Sâm). Cả ba vị tổng bí thơ liên nhiệm đều bị tù đày và chết (Nguyễn Bảo Toàn, Phan Bá Cầm, Trình Quốc Khánh). Một vị Chỉ huy quân sự bị hành quyết (tướng Lê Quang Vinh). Và biết bao cán bộ, đảng viên đã bị Pháp và Cộng Sản tàn sát từ 1946, rồi lại bị tiếp tục tù đày từ 1975 về sau.

Đất ruộng miền Tây đã thấm ướt máu hy sinh của bao nhiêu chiến sĩ Dân Xã, và các nghĩa trang rải rác ở miền Tây còn bao nhiêu nấm mộ chiến sĩ Dân Xã. Đó là những chứng tích hy sinh của một đảng cách mạng đối với tiền đồ của Tổ quốc. Với những hy sinh lớn lao như thế, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng chưa hề hưởng thụ phần nào quyền lợi vật chất, bởi vì lý tưởng của đảng chưa được thực hiện: Đất nước chưa độc lập, Dân tộc chưa có tự do.

Nhìn vào bản Tổng kết này, người đảng viên Dân Xã có thể hãnh diện rằng đó là bản tổng kết của một đảng cách mạng chơn chánh. Bản chất đích thực của tổ chức cách mạng là hy sinh vì đại nghĩa dân tộc, và hy sinh bất vụ lợi. Hơn thế, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, tuy là một đảng cách mạng, nhưng lại khác biệt với các đảng cách mạng khác là thoát thai từ một tôn giáo, từ giáo lý Phật đạo Bửu Sơn Kỳ Hương. Do đó, người chiến sĩ Dân Xã đồng thời còn là một con người hành đạo. Nói cách khác, người chiến sĩ Dân Xã quan niệm rằng tranh đấu tức là hành đạo. Tức là không tranh đấu cho cá nhân ta, cho riêng đoàn thể ta, mà tranh đấu để cứu nước, cứu dân, để thực hiện một xã hội công bằng, nhân ái, tự do và bình đẳng, đạo đức và an lạc cho tất cả, đúng theo chủ trương cứu khổ của Đức Phật.

Con đường Dân chủ Xã hội đối với người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo là con đường cách mạng đạo đức, để tiến tới một xã hội đại đồng an lạc, không phân nhơn ngã, con người bình đẳng trong thể tánh nhứt nguyên: Phật đồng thể tánh với chúng sanh, chúng sanh là Phật sẽ thành.
Đức Huỳnh Giáo Chủ đã giải thích quan điểm này như sau: “Thế nên với tâm hồn từ bi bác ái mà tôi đã hấp thụ, tôi sẽ điều hòa với phương pháp tổ chức xã hội mới, để phụng sự một cách thiết thực đồng bào và nhơn loại, thực hiện một xã hội công bình và nhơn đạo...”
Người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đi trên con đường Dân chủ Xã hội để tiến tới mục đích Hòa Hảo của Phật đạo. Sử dụng phương tiện dân chủ xã hội để đạt cứu cánh Hòa Hảo.

17- Vài Đặc Điểm Về Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng
Sở dĩ Dân Xã Đảng đặt vấn đề độc lập quốc gia trước các vấn đề khác là vì:
1.       Trên lập trường quốc tế, nước Việt Nam có được độc lập, dân tộc Việt Nam mới được sống bình đẳng với các dân tộc khác; dân tộc bình đẳng nhau mới chủ trương được dân tộc hiệp lực, mới kiến thiết được hòa bình xác thực cho thế giới.
2.       Dân tộc Việt Nam được tự chủ và mạnh mới tránh khỏi sự chi phối của đế quốc chủ nghĩa, và thi hành một cách có hiệu quả những biện pháp chánh trị và kinh tế, đem lại hạnh phúc cho các từng lớp dân chúng.

Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng là một đảng DÂN CHủ, chủ trương thiệt thi triệt để nguyên tắc chánh trị của chủ nghĩa dân chủ: CHủ QUYỀN ở NƠI TOÀN THỂ NHÂN DÂN.
Đã chủ trương TOÀN DÂN CHÁNH TRỊ, thế tất đảng CHỐNG ĐỘC TÀI BẤT CỨ DƯỚI HÌNH THỨC NÀO.
VIỆT NAM DÂN CHủ XÃ HỘI ĐẢNG là một đảng CÁCH MẠNG XÃ HỘI, chủ trương tổ chức nền kinh tế theo nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội: không để giai cấp mạnh cướp công của giai cấp yếu, làm cho mọi người đều được hưởng phúc lợi cân xứng với tài năng và việc làm của mình...
(Trích bản Tuyên Ngôn ngày 21-9-1946 của VNDCXHĐ)

Sau đây là phần tường thuật của ông Trần Văn Ân (một ủy viên Trung ương Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng) về một số sự việc chung quanh sự thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng.

THÀNH LẬP ĐẢNG VIỆT NAM DÂN CHỦ XÃ HỘI
Đức Thầy và chúng tôi đã thảo luận về nguyên tắc thành lập chánh đảng, tức chánh trị hóa quần chúng của Đức Thầy, để phần nào chuyên hành đạo thì không trực tiếp tham gia việc Đảng, và phần khác thì sanh hoạt hẳn theo công tác tranh đấu của quần chúng.

Bây giờ nhắc lại, khó được người tin về chuyện chúng tôi cùng Đức Thầy thường gặp nhau thảo luận trong những bữa cơm dùng tại các tiệm ăn Tàu ở đường Marins Chợ Lớn, như tiệm Băng Gia Tửu Lầu. Tôi có hỏi qua về chuyện ăn uống của Đức Thầy trong bưng, có khi phải ăn mặn, nhưng với chúng tôi, Đức Thầy vẫn dùng cơm chay. Tiệm Tàu nào cũng có đồ chay. Bữa đó chúng tôi năm, sáu người có hẹn nhau ở tiệm Băng Gia vào buổi trưa, không đi chung mà cùng tới một lúc. Bên chúng tôi có ba người, bên Đức Thầy cũng có ba người, nếu trí nhớ của tôi không lầm. Sở dĩ hẹn ăn trưa, vì mật thám ít đi lùng bắt. Giữa chúng tôi, có một người mặc y phục Hoa kiều như Đức Thầy...

Dùng cơm xong ở Băng Gia, chúng tôi tỏa ra mỗi người đi một hướng, để rồi hẹn tụ tập ở một địa điểm ở đường Palikao, Chợ Lớn. Phía Đông Nam, ít có nhà người Việt, và có nhiều nhà máy xay. Nhà này là của một người bà con bên vợ anh Sâm, thân với anh, và cũng là người ái quốc. Ông chủ nhà thuộc thành phần trưởng giả. Trọn ngày chúng tôi không ra khỏi cửa. Đức Thầy ở trên một cái lầu dành thờ Phật và tụng niệm của chủ nhà, cất trên hết, và vuông vức độ ba thước hoặc hơn một chút. Người trong nhà không một ai lui tới. Duy có chúng tôi, vài người đệ tử của Đức Thầy, ông chủ nhà, và Đức Thầy. Đem đồ ăn, cũng là ông chủ nhà. Tiểu tiện, đi không gặp ai cả. Xin nói ngay, ông chủ nhà, ông Hội Đồng Nhiều (Hội đồng thành phố) tức Nguyễn Văn Nhiều. Trước khi viết bài này, tôi đã có đốt nén hương khấn vái vong linh tiền bối, đồng chí ái quốc, và nguyện cầu danh hiệu Đức Thầy, tới đây tôi đốt tiếp vì lòng tôi cảm thấy bùi ngùi nao nao... Số là, ông Hội đồng Nhiều sau đó, đương đêm bị Việt Minh vào nhà bắt đi và giết chết, chặt thành nhiều khúc, xác bỏ dọc đường mương (nếu sự nghe của tôi không lầm về sự chặt thây ra nhiều khúc rất thê thảm).

Trong năm người có mặt hôm ấy, không kể đệ tử của Đức Thầy, nay đã vắng mặt bốn người. Làm sao tôi tránh được đau xót, và thảm thắc lâng lâng, khi tôi viết tới đoạn này.

Độc giả khi đọc tới đây, nên tưởng tượng một cảnh nhà khá giả nhà ngói cột giồng, với nhiều bàn thờ, ván gõ, ghế trường kyœ, mỗi thứ đều bằng gỗ lim theo kiểu cổ xưa. Chỉ có bảy người, kể cả hai đệ tử của Đức Thầy. Nói chuyện rất nhỏ tiếng, trọn hai ngày như vậy. Chiều ngày thứ ba, mới giải tán. Vì ngày thứ ba là ngày xong cả giấy tờ, sau khi đã quyết định. Cả bảy người, người nào cũng nghiêm nghị. Đức Thầy là người nghiêm chỉnh hơn cả. Hai đệ tử của Đức Thầy cũng ít nói, Nguyễn Văn Sâm vốn sẵn tính bình tĩnh, suy tư. Nguyễn Bảo Toàn là người có tánh động hơn cả. Kẻ viết bài này thì động tịnh như nhau, vì là người thuyết trình và soạn thảo tài liệu.

Người đọc cũng nên để ý về tâm trạng của bốn người chánh yếu, để nhận chơn tình trạng cuộc nói chuyện. Đức Thầy là người “không học mà biết”, người tự sáng, tức là illuminé. Sâm và tôi là người có ngồi ở nhà trường khá lâu, và có đọc sách cũng khá nhiều. Nguyễn Bảo Toàn là người đã làm báo, đóng vai chủ nhiệm (Dân Mới) có biết ngồi tù Côn Đảo chung với Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, v.v...

Vẫn biết đã có nhiều lần nói sơ qua trước, nhưng đây là lần quyết định, nên có quy định ngày giờ, vì không thể ở đây lâu ngày. Ngày thứ nhứt, thảo luận tổng quát. Ngày thứ nhì, đi sâu vào vấn đề. Tối lại, giao cho người soạn thảo Tuyên Ngôn và Chương trình. Sáng ngày thứ ba, hoàn chỉnh chung nhau. Chiều ngày thứ ba, quyết định và giải tán.

Mấy câu hỏi của Đức Thầy nêu lên về hoàn cảnh nước nhà có thực hiện chánh trị xã hội và dân chủ được chăng? Sự khác biệt giữa nước mình và Tây Âu? Có tổn thương tôn giáo không? Làm sao đề cao nhân phảm, v.v...

Phần tôi có trình bày đặc tánh nước mình không có tư bản như Âu Châu, vấn đề giai cấp đấu tranh không đặt ra. Mà có vấn đề quốc hữu hóa các đồn điền lớn, và tiết chế tư bản. Kinh tế sẽ đặt trên nguyên tắc “giàu chung” (quân phú) và đồng đều. Xã hội sẽ được tổ chức trên nền tảng công bằng, làm cho không có kẻ ăn không ngồi rồi (trợ trưởng giai cấp cần lao), và kẻ có ý bóc lột sẽ bị loại.

Nghiên cứu chánh sách công điền, chánh sách hương thôn, vai trò và ảnh hưởng của người cao niên trong xã hội (tức vai trò ông Cả trong làng), hiện đại hóa cái gọi là Ngũ thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Vì trong đó đã có tinh thần chủ nghĩa xã hội và dân chủ (công bình và bình đẳng, trong Nhân có vấn đề trọng nhân phảm, trọng nghĩa công bình). Có xét qua vấn đề dân tộc tánh và xếp đặt gia đình trong xã hội. Làm sao tránh tệ đoan...

Nhưng tôi có thưa qua là: mình chỉ đặt nguyên tắc dẫn đạo tức principes directeurs, để về sau sẽ nhờ các bậc cao học nghiên cứu thêm. Do đó người đọc Chương trình và Tuyên ngôn Dân Xã Đảng không thấy có chi tiết.

Nhơn đây tôi xin bạn đọc chớ quên rằng Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ là một vị Giáo Chủ. Ưng nghe và thảo luận suốt ba ngày, ưng chánh trị hóa quần chúng của mình, không chấp nhận sự cuồng tín như ta đã thấy ở nhiều tôn giáo từ xưa và hiện nay, không chấp nhận độc tài đảng trị, không bỏ rơi người nghèo khổ, ưng làm những gì để thủ tiêu bất công xã hội, chống cộng mà không ưng tàn sát, thương người thương cả mọi người: quả tình là hiếm có. Mà sở dĩ có, theo tôi nghĩ, là nhờ truyền thống Phật Giáo, nhứt là miền Tây Nam Việt, như đạo Phật Thầy Tây An Bửu Sơn Kỳ Hương...

Danh sách Ban Chấp hành Trung ương đầu tiên của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng:
§         Tổng Bí thơ: Nguyễn Bảo Toàn (nhân sĩ)
§         ủy viên Ngoại giao: Nguyễn Văn Sâm (nhân sĩ)
§         ủy viên Chánh trị: Trần Văn Ân (nhân sĩ)
§         ủy viên Tuyên huấn: Lê Văn Thu (nhân sĩ)
§         ủy viên: Lâm Văn Tết (nhân sĩ)
§         ủy viên: Đỗ Phong Thuần (nhân sĩ)
§         ủy viên: Trần Văn Tâm (Phật Giáo Hòa Hảo)
§         ủy viên liên lạc: Lê Văn Thuận (Phật Giáo Hòa Hảo)
§         ủy viên: Huỳnh Giáo Chủ (Phật Giáo Hòa Hảo)

Điểm đáng lưu ý là trong số chín ủy viên Trung ương, chỉ có ba người Phật Giáo Hòa Hảo, kể cả Huỳnh Giáo Chủ, giữ các nhiệm vụ có tính chất yểm trợ. Các chức vụ trọng yếu về chính trị, ngoại giao, đều do các trí thức không phải tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo.

Trong tài liệu Phật Giáo Hòa Hảo, có ghi một mảu chuyện về phản ứng lo ngại của tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, và sự giải thích của Huỳnh Giáo Chủ như sau:

Khi các tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tỏ vẻ lo ngại về việc giao trọn quyền điều khiển Việt Nam Dân  Chủ Xã Hội Đảng cho những nhân sĩ ngoài Đạo, thì Đức Thầy nói rằng:
—      Phàm đã hợp tác thì nên thành thật. Đã tín nhiệm thì phải giao phó nhiệm vụ, đặt để đúng chỗ, xứng với tài năng. Việc cứu nước là việc mình nên ủng hộ người ta làm, chớ đừng tÿ hiềm, tranh giành địa vị mà hư việc lớn. Mình nên thực tâm đem khối quần chúng hùng hậu của Phật Giáo Hòa Hảo mà ủng hộ các chiến sĩ cách mạng tranh đấu cho Đất nước.

18- Thành Lập Đảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội
Ngày 21-9-1946, Huỳnh Giáo Chủ và một số trí thức có khuynh hướng quốc gia, công bố việc thành lập chánh đảngViệt Nam Dân Chủ Xã Hội.

Phật Giáo Hòa Hảo là một tôn giáo. Chủ trương chung của tôn giáo là cải thiện con người, nhưng tôn giáo Phật Giáo Hòa Hảo lại mạnh dạn bước vào hai địa hạt: giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội. Có thể nói rằng vị Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo đã đề xướng một lần ba cuộc cách mạng:
§         Cách mạng con người.
§         Cách mạng giải phóng dân tộc.
§         Cách mạng xã hội.

Từ địa hạt siêu hình của tôn giáo, Phật Giáo Hòa Hảo bước vào địa hạt thực tiễn của xã hội. Khơi dậy lòng ái quốc của con người, ý thức họ nhập cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, tranh đấu đánh đuổi thực dân Pháp, điều này vẫn còn nằm giữa ranh giới siêu hình và thực tế, vì yêu nước là một tình cảm, và tinh thần đấu tranh thể hiện lòng ái quốc vẫn thường mang tính chất trừu tượng. Nhưng bước vào địa hạt cách mạng xã hội, là bước từ siêu hình sang thực tiễn. Cách mạng xã hội phải có lý thuyết và hành động thực tiễn, không thể siêu hình hay trừu tượng như tôn giáo và ái quốc.

Cho nên sự ra đời của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng vào ngày 21-9-1946 được xem là một quyết định quan trọng, và cũng là một chuyển hướng mới của Phật Giáo Hòa Hảo. Dư luận vẫn cho rằng Phật Giáo Hòa Hảo là một đạo nhập thế, nhưng nhập thế ở mức độ tiêu cực hay tích cực? Nhập thế trên bình diện tôn giáo hay trên các bình diện khác của sinh hoạt xã hội?
Phật Giáo Hòa Hảo có sẵn điều kiện cơ bản về tổ chức để chuyển thành một chánh đảng. Khác với đạo Phật nói chung tại Việt Nam, Phật Giáo Hòa Hảo là một khối quần chúng có tổ chức thành hệ thống hàng ngũ (an organized mass), chớ không phải chỉ là một khối quần chúng tâm lý (a psychological mass). Sự khác biệt giữa hai loại quần chúng có tổ chức và quần chúng tâm lý là: quần chúng hướng về một giáo lý hay chủ thuyết, nhưng không minh bạch liên kết thành một tổ chức có hệ thống chặt chẽ. Đây là quần chúng tâm lý, không có sự ràng buộc chặt chẽ, kyœ luật chặt chẽ để trở thành một khối đồng nhứt.

Trái lại, quần chúng có tổ chức thể hiện sự hưởng ứng tư tưởng và tâm lý thành hình thức gia nhập tổ chức, chấp nhận đặt mình trong hệ thống của tổ chức, chịu kyœ luật và lãnh đạo chung của tổ chức, hành động theo chỉ thị của cấp lãnh đạo.

Thí dụ cụ thể, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo là quần chúng tâm lý của đạo Phật, nhưng là quần chúng có tổ chức của Phật Giáo Hào Hảo, hành động theo đường lối, chỉ thị ban hành bởi cấp chỉ đạo hệ thống Phật Giáo Hòa Hảo.

Nói chung, tại Việt Nam, quần chúng các chánh đảng là quần chúng có tổ chức, quần chúng các tôn giáo là quần chúng tâm lý. Trường hợp đặc biệt và ngoại lệ: hai tôn giáo Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo, tuy là tôn giáo, nhưng lại là hai khối quần chúng có tổ chức. Cả hai tôn giáo này tích cực nhập thế, tham gia các hoạt động cách mạng, chánh trị, kể cả hình thức cao nhất là võ trang thành lập các đơn vị quân sự, theo nhu cầu của giai đoạn đấu tranh đặc biệt từ 1940 về sau.

Đảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội ra đời năm 1946 là cái mốc đánh dấu bước tiến của tổ chức Phật Giáo Hòa Hảo vào cách mạng xã hội. Phần tài liệu trích dẫn sau đây nói về lược sử của chánh đảng này:

Ngày 21-9-1946, Đức Huỳnh Giáo Chủ loan báo một tin quan trọng: Ngài thành lập một đảng chánh trị lấy tên là VIỆT NAM DÂN CHủ XÃ HỘI ĐảNG, gọi tắt là DÂN XÃ ĐảNG.

LÝ DO THÀNH LẬP
Vài ngày trước khi công bố, Đức Huỳnh Giáo Chủ có đòi một số tín đồ tín cản từ miền Tây lên, và ngài dạy rằng:
1.       Việt Minh tranh đấu chánh trị, nếu Thầy đem đạo (Phật Giáo Hòa Hảo) ra tranh đấu thì không thích hợp. Vì đạo lo tu hành chơn chất. Nên Thầy phải tổ chức đảng chánh trị, mới thích ứng nhu cầu tình thế nước nhà.
2.       Các nhà ái quốc chơn chánh trong nước mặc dầu nhận Thầy là một nhà ái quốc, nhưng không hề cùng hiệp chung với Thầy dưới danh nghĩa Phật Giáo Hòa Hảo để lo việc quốc gia, bởi lẽ anh em ấy không thể tu hành như mình, hoặc giả đã có đạo rồi thì không thể bỏ đạo quy y Phật Giáo Hòa Hảo. Vì vậy, Thầy phải tổ chức chánh đảng để anh em ấy có điều kiện tham gia. Họ chỉ phải giữ kyœ luật của Đảng mà thôi, còn tôn giáo thì riêng ai nấy giữ.
3.       Vậy tất cả anh em tín đồ, nếu thấy mình còn nặng nợ với Non sông Tổ quốc, thương nước thương dân, hãy tham gia đảng (VNCHXHĐ) mà tranh đấu. Đây là phương tiện để anh em hành xử Tứ-Ân.
(Dẫn trích theo lời tường thuật của ông HHP, trình bày cuộc diện kiến Đức Huỳnh Giáo Chủ tại Chợ Lớn, để đem thông điệp truyền khảu của Ngài về miền Tây phổ biến cho tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo).

Ba điểm trên đây là những lời giải thích của đức Huỳnh Giáo Chủ cho các tín đồ hiểu rõ lý do Ngài khai sanh Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng. Nghiên cứu sâu vào phần lý luận, sự ra đời của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng phát sanh từ các căn bản sau đây:
— Về NGUYÊN LÝ: Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng thoát thai từ căn bản giáo lý Tứ Đại Trọng Ân, gọi tắt là Tứ Ân, xiển dương bởi Đức Phật Thầy Tây An trước kia (1849-1856), và Đức Huỳnh Giáo Chủ (1939 về sau). Người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo hành xử Tứ Ân, có bổn phận tích cực đền đáp Ân Đất nước và Đồng bào.

Từ giáo lý Tứ Ân, Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng ra đời như một phương tiện cần thiết và thích nghi cho người tín đồ đền đáp Ân Đất nước và Đồng bào.
— Về CHỦ THUYẾT: Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng phát sanh từ quan niệm căn bản: dung hòa ưu điểm của chủ thuyết dân chủ tự do với ưu điểm của chủ thuyết kinh tế xã hội hóa. ViệtNam không thể là một xã hội vô sản như chủ thuyết cộng sản, cũng không thể là một xã hội tư bản để kẻ mạnh hiếp đáp bóc lột kẻ yếu kém. Chủ thuyết dân chủ xã hội nhằm thực hiện một xã hội dân chủ có tự do cho con người, đồng thời có công bằng về quyền lợi kinh tế.

Trong hoàn cảnh 1945-1946, nhiệm vụ trước mặt của toàn dân là đánh đuổi thực dân Pháp, nhưng nếu sau khi độc lập rồi, mà dân tộc Việt Nam vẫn phải tiếp tục sống trong bất công, nghèo khó, vẫn bị mất tự do, bị kềm kẹp, thì chưa có giải phóng thực sự. Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng ra đời là một tiên liệu sáng suốt vạch trước cho dân tộc con đường thích hợp, sau giai đoạn giải phóng đất nước, là giai đoạn giải phóng con người, xây dựng lại một đất nước độc lập, phú cường, với một xã hội Việt Nam công bằng và tự do.

— Về CHIẾN THUẬT: Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng ra đời như một nhu cầu khản thiết của tình thế lúc đó. Các đảng phái cách mạng Việt Nam ra đời trước đó thể hiện mạnh mẽ khuynh hướng giải phóng quốc gia hơn là biểu lộ đường lối xây dựng xã hội Việt Nam thích nghi với hoàn cảnh thế kyœ 20. Trong khi đó, đảng Cộng Sản Đông Dương tuy nêu cao chiêu bài ‘’Độc lập, Tự do, Hạnh phúc’’, nhưng đã nuôi sẵn hậu ý đưa xã hội Việt Nam đến một chế độ vô sản chuyên chính. Thanh niên Việt Nam lúc đó, với lòng yêu nước nồng nhiệt, say sưa chiến đấu vì độc lập đất nước, đang bị Cộng Sản đầu độc bằng chủ nghĩa Mác Lê, có thể nhận định sai lầm mà cho rằng Cộng Sản chủ nghĩa là xuất lộ duy nhứt cho tương lai Việt Nam.

Đó là một nguy cơ trầm trọng. Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng ra đời vừa để vạch một chủ trương tiến bộ dựng nước, cũng vừa là liều thuốc đề kháng vi trùng Cộng Sản, giải độc cho lớp thanh niên đang sắp bị sa vào cạm bẫy Cộng Sản.

Do đó, có thể xem sự thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng là một chiến thuật đối đầu với chủ nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam, đối phó hiểm họa xích hóa Việt Nam.
Tóm lại, sau đây là những lý do chánh yếu thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng:
1.       Tạo môi trường hợp tác giữa Phật Giáo Hòa Hảo và các nhà ái quốc chơn chánh để tăng cường hiệu năng kháng Pháp (phối hợp giữa quần chúng và trí thức).
2.       Vạch một chủ trương tiến bộ để xây dựng đất nước sau khi thâu hồi độc lập.
3.       Đối kháng âm mưu xích hóa Việt Nam của đảng Cộng Sản Đông Dương.
4.       Tạo môi trường thích hợp cho tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tham gia đấu tranh, hành xử Tứ Ân.
5.       Trong thời điểm ấy, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng được xem là một đảng tiến bộ, và cũng vì thế bị Cộng Sản xem như một đối thủ nguy hiểm cần phải diệt trừ.

QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG VIỆT NAM DÂN CHỦ XÃ HỘI ĐẢNG
Trong lịch sử hình thành chánh đảng, chưa bao giờ có sự kiện đặc biệt như tiến trình thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, lập tức có ngay trên một triệu đảng viên. Cũng chưa có chánh đảng Việt Nam nào có số đảng viên cao đến cả triệu người. Chỉ một thông điệp truyền khảu của Đức Thầy ban ra, khối tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo trở thành trên một triệu đảng viên Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng.

Mặc dầu phải hoạt động bí mật, đương đầu với sự khủng bố khốc liệt của thực dân Pháp, hệ thống Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng đã bành trướng, các công tác cách mạng của đảng đã được thực hiện một cách hiệu quả, trong thời gian kyœ lục, để kịp thời ứng phó với một tình thế dầu sôi lửa bỏng.
§         Thành lập Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Bộ, ngay tại thủ đô Saigon, mà vẫn hoạt động bí mật.
§         Thành lập Ban Chấp Hành Liên Tỉnh Miền Tây Nam Việt để lãnh đạo trực tiếp công cuộc chiến đấu của Đảng tại các tỉnh miền Tây.
§         Thành lập hệ thống Ban Chấp Hành Đảng từ Tỉnh, Quận đến mọi Xã.
§         Phát hành nhựt báo Quần Chúng làm cơ quan tuyên huấn cho lý tưởng Dân chủ Xã hội, với đường lối vừa chống Thực dân vừa chống Cộng sản. Cũng là diễn đàn tranh đấu chống lại âm mưu chia cắt đất nước lúc đó của thực dân Pháp. Báo Quần Chúng mỗi ngày được vận chuyển qua một hệ thống đặc biệt đưa từ Saigon về các tỉnh miền Tây, phân phối tận các xã.
§         Tổ chức lớp huấn luyện cán bộ Dân Xã. Lớp đầu tiên đào tạo những thanh niên cán bộ nòng cốt, được tổ chức ngay tại Chợ Lớn, dưới hình thức lưu động liên tiếp để tránh màn lưới mật thám Pháp.
§         Tổ chức cơ quan huấn luyện chánh trị và quân sự ở miền Tây để đào tạo cán bộ điều hành hệ thống Ban Chấp Hành đảng.
§         Yểm trợ tiếp liệu và tình báo cho các đơn vị quân sự chiến đấu ngoài mặt trận.
§         Thiết lập hệ thống liên lạc bí mật từ thành ra chiến khu, từ Trung Ương đến các cấp, để phối hợp công tác, chuyển vận tài liệu, chỉ thị.
§         Đề cử đại diện Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng tham gia các ủy ban Hành chánh Kháng chiến các cấp, để tăng cường hiệu năng chiến đấu chống Pháp.

Trước sự bành trướng thần tốc và sâu rộng của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, Cộng Sản và thực dân Pháp tìm mọi cách để cản trở, phá hoại. (Một điều đặc biệt cần ghi lại, là không phải chỉ các tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo gia nhập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, mà phong trào dân chúng, nhứt là giới thanh niên ngoài đạo Phật Giáo Hòa Hảo cũng hưởng ứng tham gia Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng rất nhiều, khiến cho Cộng Sản rất lo ngại. Các giới bên ngoài hưởng ứng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng vì nhận thức tánh chất tiến bộ và thích nghi của chủ trương Dân Chủ Xã Hội). Thủ đoạn sâu độc nhứt của Cộng Sản lúc đó là mượn tay quân đội Pháp để bắt bớ cán bộ Dân Xã, tiêu hủy cơ sở Dân Xã, khủng bố tàn nhẫn những vùng đông đảo tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo. Cộng sản tìm cách gài nhân viên vào hệ thống mật thám Pháp, đưa tin cho phòng nhì hay công an Pháp biết về địa điểm, cán bộ, tổ chức và sanh hoạt của Dân Xã, để quân đội Pháp kéo đến khủng bố, tiêu hủy nhà cửa, bắn giết dân chúng. Ngay tòa soạn báo Quần Chúng cũng bị liệng lựu đạn.

Cũng vì dã tâm đó mà tình thế trở nên căng thẳng giữa Dân Xã và Việt Minh Cộng Sản, đưa đến những xô xát đẫm máu vào đầu 1947. Trong tình huống đó, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng tiên liệu sự bế tắc của cuộc kháng chiến, và nguy cơ độc tài đảng trị của Cộng Sản, cho nên đã quyết định phái đại diện của đảng, bí mật xuất ngoại đi Trung Hoa, Hồng Kông gặp Cựu hoàng Bảo Đại, cùng đại diện các đảng phái quốc gia thảo luận về sự hình thành một giải pháp quốc gia thay thế vai trò Cộng Sản Việt Minh. Một mặt trận ra đời tại Nam Ninh, ngày 27-2-1947 lấy tên là Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt Toàn Quốc.

Để cứu vãn một tình trạng nguy hiểm, một ủy ban Hòa giải được thành lập để giải quyết những vụ xung đột giữa Dân Xã và Việt Minh ở miền Tây. Nỗ lực này bị vô hiệu hóa bởi sự thiên vị trong thành phần ủy ban, và bởi ý định của Cộng Sản nhứt định đánh phá để tiêu diệt Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng.

Sau hết, Đức Huỳnh Giáo Chủ phải quyết định thân hành về miền Tây để giải quyết tình thế căng thẳng tột đô. Và, như mọi người đã biết, Cộng Sản Việt Minh âm mưu ám hại Ngài, ngay trong lúc Ngài hội nghị với họ (16-4-1947)

19- Dân Chủ Xã Hội Trong Xã Hội Nông Nghiệp
Nghiên cứu lý do hình thành Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, người ta cho rằng vị Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo đã nhận thấy tại Việt Nam cũng như tại các quốc gia Á Châu, vấn đề nông nghiệp và nông dân vẫn là vấn đề rộng lớn và quan trọng nhứt. Cách mạng xã hội theo đường lối dân chủ xã hội, để cải tiến đời sống khối đa số là nông dân và phát triển nông nghiệp là khu vực kinh tế quan trọng nhứt lúc đó của Việt Nam, sử dụng tyœ lệ nhân lực 80% của lực lượng sản xuất, lại là một cuộc cách mạng xã hội chủ hướng bởi tư tưởng Phật giáo, chẳng những là giải đáp cho vấn đề con người của nông dân, mà còn là giải đáp chính yếu then chốt cho toàn bộ vấn đề xã hội kinh tế của quốc gia nông nghiệp Á Châu.

Chủ trương này đương nhiên gây trở lực cho Cộng Sản, vì thu hẹp chân trời hoạt động của đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong một xã hội mà nền kỹ nghệ còn ở giai đoạn phôi thai như Việt Nam, giai cấp vô sản thợ thuyền chỉ là một thành phần nhỏ. Theo thống kê năm 1933, tổng số thợ thuyền tại Đông Dương chỉ có 223.000 người gồm 180.000 thợ thuyền các xí nghiệp kỹ nghệ và 43.000 thợ thuyền các đồn điền cao su. (*)

Lực lượng vô sản thợ thuyền này quá yếu, không đủ khả năng đóng vai trò nòng cốt và tiền phong của cách mạng Mác-xít, cho nên đương nhiên Đông Dương Cộng Sản Đảng phải chuyển dịch địa bàn sang thành phần nông dân.

Vào năm đầu của thập niên 30, tổ chức Đông Dương Cộng Sản Đảng đã bắt mạch được tâm trạng nông dân và nguyện vọng giải thoát của họ, và đã tung vào khu vực nông thôn miền Nam một số cán bộ với luận điệu “giải phóng nông dân theo con đường Cộng Sản chủ nghĩa”. Nhưng luận điệu Mác-xít lại không thích ứng với tâm hồn lớp nông dân này. Tính chất “thuần lý” của chủ nghĩa Mác-xít tự nó và riêng nó không đủ để đáp ứng tâm lý và nguyện vọng người nông dân miền Nam Việt Nam. Bởi vì nó thiếu hẳn một chất liệu rất quan trọng, có thể gọi đó là chất liệu văn hóa, mà thực tính là chất liệu tín ngưỡng.

Nếu giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo đã đạt tác dụng ý thức và huy động được một khối quần chúng khoảng hai triệu nông dân để đưa họ vào cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội, thì đảng chánh trị Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng ra đời năm 1946 (21-9-1946) là một hình thức để định chế hóa các sinh hoạt cách mạng của tổ chức này, đồng thời cũng là một công thức phối hợp giữa khả năng hậu thuẫn của quần chúng Phật Giáo Hòa Hảo và khả năng lãnh đạo trên thượng tầng quốc gia của giới trí thức cách mạng Việt Nam


20- Vấn Đề Nông Dân Trong Xã Hội Á Châu

Rõ ràng là tại Á Châu “Dĩ Nông Vi Bản”, vấn đề nông nghiệp và nông dân quan trọng hơn là vấn đề lao động kỹ nghệ. Đó là điểm khác biệt xã hội giữa Tây Phương và Đông Phương. Trước đệ nhị thế chiến, ngoại trừ Nhật Bản, tyœ lệ dân chúng sống tại nông thôn các quốc gia Á Châu, trung bình là 80%. Tyœ lệ này, bây giờ đã thay đổi trong chiều hướng giảm đi, nhưng nông dân vẫn còn là thành phần đại đa số trong các xã hội Á Châu.

Nếu tại các nước Tây Phương, khu vực kỹ nghệ là quan trọng nhứt, thì tại Á Châu, phải nhận rằng nông nghiệp và vấn đề nông dân, cho tới nay, vẫn là vấn đề rộng lớn và quan trọng nhứt. Rộng lớn và quan trọng không phải chỉ đơn thuần vì đa số dân chúng sinh sống tại nông thôn, rộng lớn và quan trọng vì nông nghiệp tại Á Châu không phải chỉ là vấn đề kinh tế, mà còn là vấn đề văn minh văn hóa.

Nghề canh nông, không phải chỉ là kế sinh nhai, mà còn là một nếp sống, một quan niệm sống, nói chung là một nhân sinh quan. Từ quan niệm này, chánh sách phát triển nông nghiệp tại Á Châu, không phải chỉ đặt vấn đề sản xuất, sản lượng, mà phải đặt nặng vấn đề con người sản xuất, tức vấn đề nông dân. Nông dân, đặc biệt nông dân Á Châu, về mặt ước vọng tâm lý, hẳn không muốn rằng mình là một bộ phận trong đại bộ phận máy móc của cơ xưởng, hay một thành phần nguyên liệu cấu tạo sản phảm. Nông dân không chỉ là phương tiện sản xuất, hay lao động sản xuất, như con ốc hay bù lon, mà nông dân vẫn là con người, đối tượng phục vụ của các sinh hoạt xã hội kinh tế. Vậy, vấn đề nông nghiệp ở Á Châu, vừa là vấn đề kinh tế, vừa là vấn đề nhân bản, khác với quan niệm Mác-xít cho rằng nông nghiệp đơn thuần là một phần lực lượng sản xuất trong hạ tầng cơ sở kinh tế.

Đông Phương có hoàn cảnh kinh tế và truyền thống văn hóa khác với Tây Phương. Đa số dân chúng ở đây sống với nghề nông, sinh hoạt tại môi trường đồng ruộng, gần thiên nhiên và phóng khoáng, lại mang sẵn từ lâu đời ảnh hưởng của truyền thống văn minh văn hóa mà bảng giá trị đạo đức và tinh thần khác với Tây Phương. Môi sinh và nếp sống nông nghiệp ấy tạo nên nếp suy nghĩ, cảm giác và phản ứng đặc biệt của con người nông dân.

Nghề làm ruộng là hình thức mưu sinh độc lập tự tại, cho nên người nông dân nào cũng nuôi khát vọng căn bản giống nhau, là có quyền làm chủ một miếng đất, và có quyền chăm sóc, canh tác, gặt hái, sinh sống trên mảnh đất ấy, từ đời này sang đời khác. Một gia đình sống chung dưới mái một ngôi nhà nhỏ cất trên mảnh đất gia đình đó, là hình ảnh của hạnh phúc trong đời sống cá nhân, đời sống gia đình, tuy mộc mạc bình dị, nhưng rất thiêng liêng quý báu đối với người nông dân. Mảnh đất tư hữu ấy, chính là đời sống đích thực của nông dân, là bảo đảm mưu sinh và hạnh phúc của họ.

Đối với nông dân, đặc biệt là nông dân Á Châu, bị xô đuổi ra khỏi môi sinh khoáng đạt ấy là một tai họa bi thảm. Tước đoạt mảnh đất tư hữu là một tội ác gớm ghê . Chắc là người nông dân Âu Châu ở thế kyœ 18-19, khi bị xô đảy về đô thị, thành lao động kỹ nghệ, đã không cảm thấy đau khổ và luyến tiếc đồng ruộng như mức độ đau khổ luyến tiếc của người nông dân Á Châu.



21- Không Thể Rập Khuôn Tư Tưởng Tây Phương Vào Xả Hôi Đông Phương

Các lý thuyết gia Tây Phương như Saint Simon, Charles Fourrier và Proudhon của Pháp, Robert Owen và Bernard Shaw của Anh, Kautsky và Rosa Luxembourg của Đức, và những Marx, Engels, rồi Lenine, Trotsky... khi nói về xã hội chủ nghĩa, đều căn cứ và suy diễn từ diễn tiến lịch sử và tình trạng xã hội Tây Phương, cho nên đã đẻ ra những lý thuyết xã hội chỉ có thể áp dụng vào hoàn cảnh Tây Phương, mà không thể thành công ở Đông Phương.

Sự thất bại tại Đông Phương của lý thuyết xã hội nhập cảng từ Tây Phương là điều hiển nhiên. Nó phát xuất từ cái nhìn sai lầm của các lý thuyết gia Mác-xít, cho rằng “nông dân là lớp người hủ lậu, ngu muội, bất lực, bảo thủ, an phận, khư khư giữ lấy mảnh đất cỏn con của họ”. Từ cái nhìn đó, đề ra chủ trương tập sản hóa nông nghiệp thành một bộ phận của lực lượng sản xuất kỹ nghệ (hạ tầng cơ sở), Marx cho rằng công nhân vô sản mới là chủ lực cách mạng, nông dân chỉ là thành phần phụ, và sẽ phải biến mất trong xã hội đã kỹ nghệ hóa triệt để.

thực tế, ta đã thấy Lenine, Mao Trạch Đông, Hồ chí Minh áp dụng chiến thuật ve vãn nông dân trong giai đoạn tiền cách mạng để lôi cuốn họ tham gia cách mạng, nhưng khi cách mạng thành công rồi, lại quay ra tiêu diệt nông dân, bằng thủ đoạn dùng bần cố nông để áp đảo các tầng lớp nông dân khác. Ta lại cũng thấy Staline thực hiện bằng bạo lực chủ trương vô sản hóa nông dân, bằng lối truất quyền sở hữu đất ruộng của nông dân, đảy họ ra khỏi miếng đất của họ, buộc họ phải gia nhập đạo quân vô sản thành thị tại các xưởng máy, hay đạo quân lao động nông nghiệp tại các nông trường tập thể.

Sau này, Mao Trạch Đông cũng tái phạm các sai lầm này, áp dụng máy móc chủ thuyết Mác-xít vào xã hội nông nghiệp Á Châu, gây ra cái chết của trên năm mươi triệu dân Trung Hoa, mà rốt cuộc cũng phải thất bại trong chánh sách công xã.

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA DÂN-CHỦ-XÃ-HỘI TẠI Á CHÂU
Ngược lại chủ trương tập sản hóa nông nghiệp và vô sản hóa nông dân của Mác-xít, tại Việt Nam phải thực hiện chủ trương tư hữu hóa nông dân, nâng nông dân từ vô sản lên tiểu tư hữu, đáp ứng khát vọng tự nhiên của con người nông thôn, là làm chủ một miếng đất nhỏ, có phương tiện mưu sinh tự do cho cá nhân và gia đình. Quy chế tiểu tư hữu phải được duy trì qua các chương trình cải cách điền địa ôn hòa, để phân phối ruộng đất hợp lý đối với kế hoạch phát triển kinh tế quốc gia, và công bằng về quyền lợi cá nhân.

Ngược lại với chủ trương Mác-xít xô đảy nông dân về thành thị, tại Việt Nam phải đô thị hóa nông thôn, có nghĩa là đưa các tiện nghi đời sống của đô thị về nông thôn, và cải tiến khung cảnh sống cũng như nâng cao mức sống nông thôn, để tạo thịnh vượng cho nông thôn, và tạo quân bình giữa nông thôn và thành thị. Không thể duy trì tình trạng bất quân bình xã hội: sự nghèo khó tại nông thôn so với sự phồn thạnh tại đô thị.

Ngược lại với chủ trương Mác-xít phát triển đại kỹ nghệ để chi phối và “nuốt” nông nghiệp vào hệ thống kỹ nghệ, tại Việt Nam phải có kế hoạch kỹ nghệ hóa phù hợp với khung cảnh một quốc gia nông nghiệp, phải khởi sự bằng các loại kỹ nghệ yểm trợ nông nghiệp, một mặt cung cấp các nhập lượng (máy móc và nhu dụng phảm canh tác), một mặt yểm trợ tiêu thụ các xuất lượng nông nghiệp (tiếp thị, biến chế nông phảm để bảo vệ và tăng gia giá trị nông phảm).

Ngược lại với chủ trương Mác-xít đấu tranh giai cấp, tại Việt Nam phải hòa hợp xã hội, và duy trì sự hòa hợp đó bằng sức mạnh văn hóa, đồng thời với chế độ phân phối hoa lợi công bình, không cho phát sanh giai cấp bóc lột trong xã hội ngồi không hưởng thành quả việc làm của giới khác.
Ngược lại với chủ trương Mác-xít tha-hóa con người, phân tán gia đình, phá vỡ làng mạc, tại Việt Nam phải bảo vệ nền tảng gia đình, bảo tồn truyền thống làng xã, nhưng đồng thời cũng phải nâng cao trình độ kiến thức của nông dân, làm cho nông dân cũng trở nên thành phần tiến bộ trong xã hội, thoát khỏi tình trạng mà người ta thường cho là “lạc hậu, tiêu cực”.

Một xã hội đạt được các tiêu chuản nêu trên, sẽ không còn là môi trường phát sinh các chế độ chánh trị độc tài tập quyền theo quan niệm Cộng Sản, hay bóc lột bất công như xã hội tư bản. Việt Nam sẽ là một xã hội dân chủ tự do, mọi người đều có cơ hội phát triển thăng tiến, nhưng vẫn phải là một xã hội công bằng nhân đạo. Đó là căn bản của một chế độ dân chủ xã hội.

Khảu hiệu mà Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng nêu lên, là một Xã hội Dân chủ Tự do, Công bằng và Nhơn đạo. Cố nhiên trong hoàn cảnh thế kyœ 20, không thể còn xã hội nông nghiệp Nghiêu Thuấn, nhưng Việt Nam cũng sẽ phải là một xã hội Đông Phương phát triển và tiến bộ bằng các phương tiện của khoa học kỹ thuật, mà vẫn bảo tồn được các giá trị tinh thần của truyền thống văn hóa, đạo đức Đông Phương. Nói cách khác, đem văn minh Tây Phương hòa đồng vào truyền thống Đông Phương, làm cho xã hội tiến bộ theo nhịp độ của thế giới hôm nay. Chủ trương Dân chủ Xã hội Đông phương thể hiện qua lời tuyên bố của Huỳnh Giáo Chủ năm 1946:

“Ngày xưa đạo Phật không áp dụng được trong xã hội Ấn Độ, vì hoàn cảnh không thuận tiện. Ngày nay trình độ tiến hóa của nhơn loại đã tới một mức khả quan, đồng thời với tiến bộ khoa học, ta có thể thực hành giáo lý ấy để thiệt hiện một xã hội công bằng và nhơn đạo... Tôi sẽ điều hòa phương pháp tổ chức xã hội mới với tâm hồn từ bi bác ái mà tôi đã hấp thụ, để phụng sự một cách thiết thực đồng bào và nhơn loại...’’ (*)

Cho tới ngày nay, hoàn cảnh Việt Nam chưa có cơ hội hòa bình và dân chủ để thực hiện chủ trương của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, nhưng nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng ở thời điểm 1946, một đảng chánh trị phát xuất từ nền tảng một tôn giáo, mà lại có chủ trương cách mạng xã hội tiến bộ như Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, kể cũng là một hiện tượng đặc biệt.

No comments:

Post a Comment